Cơ chế hậu kiểm cho quản trị hiệu quả
HNN - Trong những cuộc thảo luận tại nghị trường, khái niệm 'hậu kiểm' đang ngày càng được nhắc đến nhiều hơn. Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề này trở thành mối quan tâm của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH), chính quyền địa phương và cộng đồng doanh nghiệp (DN).

Người dân nộp hồ sơ, tra cứu thủ tục hành chính tại bộ phận một cửa
Đổi mới quản trị
Một chính quyền hiện đại không thể chỉ dừng lại ở việc đặt ra các thủ tục, điều kiện ràng buộc trước khi người dân và DN được triển khai hoạt động. Trong bối cảnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền số, tinh gọn bộ máy và thúc đẩy phát triển, “hậu kiểm”, tức giám sát sau khi hành động đang trở thành xu thế cần thiết, để vừa đảm bảo quyền tự do sáng tạo, vừa giữ vững kỷ cương, kỷ luật.
Tại Huế, quá trình vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đang đặt ra yêu cầu cao hơn về cách thức điều hành và giám sát. Nếu trước đây, cấp huyện còn là “tầng đệm” để kiểm tra, thẩm định nhiều loại giấy phép, thì nay mô hình quản lý trực tiếp từ thành phố đến xã, phường buộc chính quyền phải thay đổi cách làm. Đó không chỉ là sự điều chỉnh bộ máy, mà còn là sự thay đổi trong tư duy quản lý: Từ “quản chặt đầu vào” sang “mở rộng quyền, tăng cường giám sát”.
Hiện nay, thành phố đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng số, dữ liệu mở và trí tuệ nhân tạo để phục vụ công tác giám sát. Hệ thống camera đô thị không chỉ để xử phạt vi phạm giao thông, mà còn để phân tích mật độ phương tiện, dự báo ùn tắc, phục vụ quy hoạch. Hệ thống đăng ký kinh doanh trực tuyến không chỉ để cấp phép, mà còn theo dõi tình trạng hoạt động, mức độ tuân thủ thuế, bảo hiểm. Và hệ thống phản ánh hiện trường không chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận thông tin, mà còn là công cụ hậu kiểm chính bộ máy hành chính, cho thấy cơ quan nào xử lý chậm trễ, thiếu trách nhiệm.
Chánh Văn phòng UBND TP. Huế, ông Trần Hữu Thùy Giang cho biết: Thành phố đặc biệt chú trọng tháo gỡ khó khăn trong giải quyết thủ tục hành chính, nhất là tình trạng hồ sơ tồn đọng tại xã, phường. “Lãnh đạo thành phố thường xuyên kiểm tra cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ bộ máy vận hành, nhằm không chỉ dừng lại ở việc trang bị, mà còn giám sát xem các thiết bị, phần mềm có thật sự phát huy tác dụng trong xử lý công việc hay không”, ông Giang nói.
Từ góc nhìn ĐBQH, bà Nguyễn Thị Sửu, Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế cho rằng, khi địa phương được trao quyền vận hành các mô hình mới như chính quyền số, một cửa điện tử hay phân cấp ngân sách thì vấn đề kiểm soát quyền lực trở nên đặc biệt quan trọng. Cơ chế giám sát, theo bà Sửu, không thể chỉ đến từ bộ máy nhà nước, mà phải có sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội. Những hội đồng tư vấn nhân dân, hiệp hội nghề nghiệp hay các tổ chức phản biện độc lập cần được trao thêm vai trò để theo dõi, phản ánh và giám sát việc thực thi chính sách sau khi đã ban hành.
Minh bạch và trách nhiệm
Thực tiễn ở Huế cho thấy, hậu kiểm chỉ thực sự hiệu quả khi có sự minh bạch và đồng hành của cả chính quyền lẫn người dân. Nếu coi hậu kiểm chỉ là công cụ để “phạt” thì chưa đủ, mà phải là cơ chế nâng cao trách nhiệm xã hội. Một DN khi biết rằng mọi dữ liệu về hoạt động của mình đều có thể bị đối chiếu, công khai và truy xuất, họ sẽ có động lực tuân thủ hơn. Một cán bộ khi biết rằng công việc của mình cũng được hậu kiểm qua hệ thống điện tử và sự giám sát xã hội, sẽ phải làm việc trách nhiệm hơn.
Ở bình diện rộng hơn, các dự án luật và nghị quyết của Quốc hội thời gian qua cũng thể hiện rõ tinh thần hậu kiểm. Điển hình trong lĩnh vực môi trường, Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã mở ra cơ chế hậu kiểm mạnh mẽ, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho DN trong việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Song song với quyền tự chủ ấy là trách nhiệm lớn: Nếu vi phạm, hậu quả pháp lý và xã hội sẽ nặng nề hơn.
Tại một phiên thảo luận tổ trong khuôn khổ Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, khi bàn về khu vực kinh tế tư nhân, ông Nguyễn Hải Nam, ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội đã chỉ rõ: Việc chuyển toàn bộ quy trình hành chính sang cơ chế hậu kiểm không chỉ là cải cách thủ tục, mà còn là yêu cầu tất yếu, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng quản trị hiện đại. Trong bối cảnh nền kinh tế số đang phát triển nhanh, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân với hàng trăm nghìn DN nhỏ và vừa, nếu vẫn giữ cách “tiền kiểm” nặng nề sẽ tạo thêm gánh nặng, làm chậm nhịp phát triển. Ngược lại, hậu kiểm vừa tạo không gian thông thoáng cho DN khởi sự, vừa đặt họ dưới sự giám sát công khai, minh bạch của pháp luật và xã hội. Đây chính là cơ chế khuyến khích sáng tạo nhưng vẫn bảo đảm kỷ cương trong quản lý.
Bà Nguyễn Thị Sửu cho rằng, Quốc hội cần thiết kế một “vành đai pháp lý mềm dẻo”: Không can thiệp cứng nhắc vào hoạt động của địa phương, nhưng phải bảo đảm nguyên tắc trách nhiệm giải trình rõ ràng sau mỗi quyết định. Đồng thời, cần nâng cao hơn nữa vai trò cử tri trong cơ chế hậu kiểm.
“Chúng ta cần thay đổi cách thức đánh giá, không chỉ xem xét quy trình có đúng quy định hay không, mà phải chú trọng đến kết quả đầu ra, tác động thực tế đối với đời sống người dân. Đó mới là thước đo quan trọng của cơ chế hậu kiểm trong quản lý”, bà Sửu nói.