Cỏ bàng xanh mướt vùng biên
Ngày 20/12/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký lệnh tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 26 đơn vị và 20 cán bộ, chiến sĩ thuộc CAND vũ trang và CAND, trong đó có Đồn 829 và liệt sĩ Hồ Đăng Khầm (sinh năm 1949, quê xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ Tĩnh).
Năm 2000, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Kiên Giang (cũ) phối hợp Sở Văn hóa xây dựng đài tưởng niệm liệt sĩ ngay trên trận địa năm xưa. Trên bia ghi đủ họ tên, quê quán của 50 anh hùng, liệt sĩ hy sinh trong chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đa số là con em các tỉnh, thành miền Bắc.
Từ mảnh đất kiên cường năm xưa
Trên đường về Phú Mỹ, tôi ghé thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang (nay là xã Kiên Lương, tỉnh An Giang) thăm ông Lê Hữu Lượng, nguyên chiến sĩ Đồn CAND vũ trang 829 (gọi tắt là Đồn 829).
Thời điểm chiến sự biên giới Tây Nam căng thẳng khi Khmer Đỏ tăng cường tổ chức các đợt tấn công vào nội địa. Đỉnh điểm là ngày 14/3/1978, chúng vượt biên giới tràn vào xóm ấp đốt phá nhà cửa, tàn sát dã man 130 người dân dưới chân núi Thạch Động ở xã Mỹ Đức, hòng làm bàn đạp đánh chiếm thị trấn Hà Tiên.

Bộ đội biên phòng Phú Mỹ băng qua đồng cỏ bàng lên biên giới tuần tra. Ảnh: Tiến Vinh
Ông Lượng nhớ như in: "Đêm 15/5/1978, địch đưa 2 đại đội đánh Đồn 829 nhưng vấp phải sự kháng cự quyết liệt của ta. Sau gần 1 giờ chiến đấu, chúng phải rút về bên kia biên giới. Những tưởng thiệt hại đó làm Pôn Pốt từ bỏ âm mưu nhưng nửa đêm 17/5, địch huy động trên 3 tiểu đoàn bộ binh có pháo và xe tăng yểm trợ, dùng hỏa lực đánh mạnh để cắt đứt chi viện của ta. Một số chốt du kích phải rút lui; điện đài không liên lạc được nên Đồn 829 gần như bị cô lập. Dẫu vậy, cán bộ, chiến sĩ vẫn kiên cường bám trụ trận địa, đẩy lùi từng đợt tấn công của chúng".
Cuộc chiến đấu càng lúc càng cam go, Ban Chỉ huy Đồn 829 lập phương án cho cán bộ, chiến sĩ rút lui để bảo toàn lực lượng nhưng địch bao vây tứ phía nên các đồng chí bị thương nhẹ cõng thương binh cắt rừng tràm, vượt đồng cỏ bàng rời trận địa. Đồng thời, thành lập đội cảm tử do Đại úy, Đồn trưởng Nguyễn Minh Phương và Trung úy, Đồn phó Hồ Đăng Khầm chỉ huy cán bộ, chiến sĩ quyết sinh tử với địch.
Giọng ông Lượng run run: "Lúc đó tôi và 2 đồng chí bị thương, anh Hồ Đăng Khầm dặn phải tìm mọi cách thoát ra ngoài, nhanh chóng liên lạc với các đơn vị tiếp tế, nếu không thì số vũ khí còn lại không đủ chiến đấu. Bởi, ta đánh từ đêm 15, chưa được nghỉ ngơi, bồi dưỡng; đến trưa 17 thì không còn đạn dược, các anh em giương lê nằm chờ. Bọn Khmer Đỏ thấy trong đồn không còn tiếng súng nên tràn lên, 34 cán bộ, chiến sĩ xốc tới đánh giáp lá cà với địch và hy sinh".
Với Trung tá Nguyễn Tiến Vinh, nhân viên Nhà Văn hóa, Phòng Chính trị, Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh An Giang, tuy không chứng kiến tường tận diễn biến trận đánh năm ấy nhưng gần 30 năm quân ngũ thì cũng ngần ấy thời gian anh thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền.
Anh kể: "Năm 1978, Trung úy Quản Trọng Phụng (sau này là Đại tá, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh Kiên Giang), trực tiếp cùng bộ đội chủ lực của tỉnh và Quân khu 9 chi viện, đánh bật Khmer Đỏ khỏi lãnh thổ. Trong phim tài liệu "Ký ức Đồn Phú Mỹ" có đoạn ông Phụng mắt ngân ngấn nước, giọng run run nói: "Khi tôi cùng đồng đội đến nơi, trước mắt ngổn ngang những đống đổ nát, nồng nặc mùi thuốc súng. Rải rác khắp các chiến hào là cán bộ, chiến sĩ bị trúng đạn nhưng hai tay vẫn ghì chặt khẩu súng. Xót xa nhất là Hồ Đăng Khầm nằm vắt trên khẩu đại liên, chân anh khóa vào khẩu súng bằng sợi dây xích như lời thề chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Đồn 829 sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, quyết tâm bám trụ giữ đồn, bảo vệ cương thổ".
Cùng tôi đến thắp nhang đài tưởng niệm, Thượng tá Danh Kim Huôl, chính trị viên Đồn Biên phòng Phú Mỹ cho biết: "Đồn CAND vũ trang 829 thành lập năm 1976, đến năm 1987 đổi phiên hiệu thành Đồn Biên phòng 973, sau đó là Đồn Biên phòng Phú Mỹ như hiện nay. Với nhiệm vụ vừa huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biên giới, vừa lao động sản xuất, sống đồng cam cộng khổ cùng đồng bào Khmer, lính biên phòng được nhân dân thương yêu, chở che, đùm bọc như con em ruột thịt.
Năm tháng qua đi, bao thế hệ người lính mang quân hàm xanh tích cực vận động nhân dân chấp hành nghiêm chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, quy định của địa phương. Đồng thời, tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện đúng quy chế biên giới giữa Việt Nam và Campuchia, hỗ trợ bà con phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống yên bình, đầm ấm giữa rừng tràm ngút ngàn xen lẫn đồng cỏ bàng xanh mướt mênh mông".
Xanh lên cuộc đời mới từ đồng cỏ bàng
Cỏ bàng là loài cỏ mình tròn, bọng ruột, cao đến 2 mét, giống cây lác hoặc cỏ năn nhưng lớn và cứng cáp hơn. Anh Kim Huôl chở tôi đến nhà ông Tiên Ên, chủ một quán cháo nhỏ ở ấp Trà Phọt, gắn bó với cỏ bàng từ lúc 10 tuổi nhưng không biết loài này tồn tại từ bao giờ, chỉ biết nó mọc xen lẫn cây tràm và phát triển tốt trên đất sình lầy, phèn chua Phú Mỹ.
Ông Ên ngoài 70 tuổi, không còn đủ sức làm nghề nên mở quán cháo bán cho khách lúc sáng sớm, chủ yếu là đàn ông trung niên và trai tráng ghé ăn vội vã rồi nhanh chóng rời đi đến đồng cỏ bàng. Trong kí ức của ông vẫn còn văng vẳng tiếng giã bàng nhưng bị tắt lịm bởi tiếng súng đạn của Pôn Pốt xua quân vượt biên giới xâm chiếm buộc ông dắt díu gia đình chạy về Rạch Giá. Khi Khmer Đỏ bị đánh tan, vùng này yên ổn, ông mới trở lại gây dựng cuộc sống.
Ông kể: "Hồi trước, ngoài trồng lúa, hầu hết người dân làm nghề cỏ bàng kiếm thêm thu nhập. Mỗi sáng, trên đồng cỏ bàng rộn ràng tiếng cười nói, không khí lao động hăng say; nhất là những ngày cuối năm. Đêm xuống, mỗi nhà đốt đèn sáng trưng lựa cỏ bàng, đập giập để đương đệm, giỏ xách, bao đựng đồ... Nhưng, lượng cỏ nhiều, phải chở qua Campuchia bán cho họ dệt thảm, các mặt hàng thủ công. Cực khổ là vậy nhưng ai cũng vui vì có thêm tiền lo cho con ăn học, thêm miếng thịt, con cá cho bữa cơm hằng ngày".

Niềm vui của người dân Khmer mùa thu hoạch cỏ bàng Phú Mỹ. Ảnh: Thanh Nhã
Để tránh mai một nghề truyền thống lâu đời này, năm 2016, UBND tỉnh Kiên Giang quy hoạch đồng cỏ bàng trên 1.000 héc-ta thuộc vùng lõi Khu bảo tồn loài - sinh cảnh Phú Mỹ, huyện Giang Thành. Năm 2017, Hợp tác xã Phụ nữ cỏ bàng Phú Mỹ ra đời với trên 50 thành viên chuyên sản xuất giỏ đệm, túi xách, thảm...
Anh Kim Huôl cho biết: "Các sản phẩm của hợp tác xã sản xuất thủ công có tính thẩm mỹ và độ bền nên bắt đầu xuất khẩu, được thị trường quốc tế đón nhận. Nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu khách hàng, năm 2019, Công ty TNHH Thảo Điền Phú Mỹ được thành lập, tiếp tục quảng bá các sản phẩm làm từ cỏ bàng tự nhiên để bắt kịp sự chuyển động của nền kinh tế xanh theo xu hướng tiêu dùng xanh từ các nước đã và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Công ty thực hiện cam kết phát triển làng nghề truyền thống với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như nón, dép, ví, tụng, sọt, giỏ xách...".
Theo anh Kim Huôl, dù nhiều sản phẩm phục vụ sinh hoạt bằng nguyên liệu khác tiện lợi hơn ra đời dẫn tới đầu ra cỏ bàng giảm giá, một số hộ dân chuyển sang nghề khác thu nhập cao hoặc bớt vất vả nhưng các mặt hàng thủ công này được chứng nhận OCOP đã khẳng định vị thế của nó trên thị trường.
Với ưu điểm sản phẩm từ cỏ bàng tự phân hủy và không gây hại môi trường, năm 2023, tỉnh Kiên Giang đầu tư hơn 8 tỉ đồng nạo vét tuyến đê bao vừa phòng, chống nguy cơ cháy trong mùa khô, vừa giữ và điều tiết nước, bảo đảm cỏ bàng sinh trưởng, đủ nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất. Cùng với đó, doanh nghiệp cũng tìm tòi, nghiên cứu đổi mới đa dạng sản phẩm, mẫu mã hợp thị hiếu người tiêu dùng nhằm tạo việc làm và thu nhập ổn định cho hàng trăm hộ dân địa phương.
Có thể nói, cỏ bàng Phú Mỹ trên vùng đất một thời thấm máu của người lính biên phòng đã, đang và sẽ vươn mình xanh mướt. Màu xanh ấy không chỉ minh chứng nghề truyền thống luôn được gìn giữ và phát triển mà còn góp phần cải thiện sinh kế cho người dân, nhất là đồng bào Khmer vùng biên giới xã Giang Thành, tỉnh An Giang - những người trực tiếp khai thác và tạo ra các sản phẩm độc đáo từ cỏ bàng.