Chuyện huy động vốn thuở sơ khai

Trong kháng chiến, nguồn tài chính hạn chế, ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng khoảng 1/4 mức chi tiêu, phần còn lại dựa vào phát hành tiền. Tuy nhiên, việc phát hành tiền cũng gây tác động tới lạm phát. Để giảm bớt những hệ quả không tốt, Chính phủ đã thực hiện chính sách vay dân bằng hình thức phát hành công trái.

Người dân hăng hái tham gia mua Công trái Quốc gia. Ảnh: Tư liệu

Người dân hăng hái tham gia mua Công trái Quốc gia. Ảnh: Tư liệu

Phát hành công trái, công phiếu kháng chiến

Theo Sắc lệnh số 122/SL, ngày 16/7/1946 do Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành, Nam bộ là vùng đầu tiên được phép phát hành công trái nhằm huy động tài lực của nhân dân cho công cuộc kháng chiến. Tháng 7/1946, tại Nam bộ đã phát hành một đợt công trái vay dân trị giá 5 triệu đồng, chia làm 5 kỳ, với lãi suất tối đa 5%/năm. Đây được xem là bước đầu quan trọng trong việc huy động nguồn lực tài chính qua hình thức công trái, vừa phục vụ sản xuất và chiến đấu, vừa tạo nền tảng cho việc phát hành công phiếu kháng chiến sau này.

Đầu năm 1948, phát huy thắng lợi sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, Chính phủ tiếp tục phát hành “công phiếu kháng chiến” theo Sắc lệnh số 160/SL, ngày 3/4/1948 với tổng giá trị dự kiến 500 triệu đồng, lãi suất 3%/năm, thời hạn hoàn vốn 5 năm, gồm 4 loại phiếu: A (200 đồng, vô danh), B (1.000 đồng, ký danh), C (5.000 đồng, ký danh) và D (10.000 đồng, ký danh).

Mục đích của công phiếu kháng chiến là huy động tiền nhàn rỗi trong dân để phục vụ chiến đấu và sản xuất, đồng thời làm tiền dự trữ để các ủy ban kháng chiến hành chính địa phương có thể ban hành lệnh cưỡng chế khi cần thiết, giúp công phiếu lưu hành như giấy bạc và có thể được dùng mua bán, trang trải nợ nần trên cơ sở tự nguyện và lòng yêu nước của nhân dân.

Tính đến cuối năm 1949, công phiếu kháng chiến chỉ bán được khoảng 40% tổng lượng phát hành, do nhiều nguyên nhân, như phân phối chưa sát thực tế vùng miền, thiếu kế hoạch thúc đẩy phát hành, lãi suất thấp (chỉ 3%/năm) trong khi lãi suất tiền gửi ngân hàng và vay nợ trong dân cao hơn, cùng với sự sụt giá nhanh của tiền, khiến người dân còn ngần ngại bỏ vốn mua.

Năm 1950, rút kinh nghiệm từ công phiếu, Chính phủ phát hành công trái ghi bằng thóc trị giá 100.000 tấn, lãi suất 3%/năm, thời hạn 5 năm. Việc tuyên truyền mạnh mẽ và kế hoạch phát hành chu đáo hơn giúp công trái quốc gia bán được nhanh hơn, song kết quả cũng chỉ đạt khoảng 30% kế hoạch dự kiến. Những lý do như khó khăn về kinh tế - xã hội, trình độ tài chính hạn chế, hình thức công trái còn mới mẻ với đại bộ phận dân chúng, cùng thời gian phát hành ngắn hơn, khiến hiệu quả huy động vốn qua công trái còn hạn chế.

Giấy bạc tài chính Việt Nam cùng tín phiếu phát hành ở Nam Trung bộ và Nam bộ đã thực sự trở thành công cụ, phương tiện hiệu quả để thực hiện thắng lợi công cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế - tài chính tiền tệ, bảo vệ nền độc lập, tự do, chủ quyền quốc gia và phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến chống Pháp.

Vào thời điểm giữa năm 1947, tình hình giao thông giữa các miền bị địch chia cắt, việc đi lại gặp nhiều khó khăn, nên việc vận chuyển Giấy bạc Tài chính được in ở Bắc bộ vào miền Trung phát hành cũng gặp khó khăn, khiến ngân sách chi tiêu và lưu thông hàng hóa không còn thuận lợi như trước. Bên cạnh đó, thời điểm này, quân địch tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để phá hoại đồng tiền Tài chính nhằm làm suy yếu nền kinh tế - tài chính tiền tệ ở miền Trung.

Trước tình hình đó, ngày 18/7/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 231/SL cho phép phát hành tín phiếu tại Nam Trung bộ, với tổng giá trị không quá 100 triệu đồng, được chia thành 7 loại: 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và 500 đồng. Xưởng in tín phiếu ở miền Trung được đặt tại huyện Sơn Hà (tỉnh Quảng Ngãi), sau đó được chuyển về Nghĩa Lâm (huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi).

Việc phát hành tín phiếu tại Nam Trung bộ đã tăng thêm nguồn tài chính cho Ủy ban Kháng chiến hành chính các tỉnh trong khu vực để chi cho các nhu cầu phục vụ công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời giúp phát triển sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa và xây dựng nền kinh tế tự cung, tự cấp. Ngoài ra, việc phát hành tín phiếu còn có tác dụng chống lại sự phá hoại của địch đối với Giấy bạc Tài chính Việt Nam.

Tại Nam bộ, ngày 1/11/1947, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã ban hành Sắc lệnh số 102/SL cho phép phát hành tín phiếu loại 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và 500 đồng, có giá trị như Giấy bạc Tài chính Việt Nam, với tổng giá trị phát hành là 20 triệu đồng.

Như vậy, Giấy bạc Tài chính Việt Nam cùng tín phiếu phát hành ở Nam Trung bộ và Nam bộ đã thực sự trở thành công cụ, phương tiện hiệu quả để thực hiện thắng lợi công cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế - tài chính tiền tệ, bảo vệ nền độc lập, tự do, chủ quyền quốc gia và phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến chống Pháp.

Thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam

Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế phục vụ kháng chiến, Chính phủ cho thành lập 3 khu vực tiền tệ và cho phép phát hành các đồng tiền khu vực. Ngày 3/2/1947, Nha Tín dụng Sản xuất (tổ chức tín dụng đầu tiên ở nước ta) được thành lập với nhiệm vụ hỗ trợ vốn cho nhân dân phát triển sản xuất, hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn, làm hậu thuẫn cho chính sách giảm tức và hướng đến việc làm ăn tập thể.

Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam ngày càng tiến triển mạnh mẽ, với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường, vùng giải phóng không ngừng được mở rộng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải củng cố và phát triển theo yêu cầu mới.

Do vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951) đề ra chủ trương, chính sách mới về kinh tế - tài chính, trong đó chỉ rõ: “Chính sách tài chính phải kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế; thành lập Ngân hàng Quốc gia, phát hành đồng bạc mới để ổn định tiền tệ, cải tiến chế độ tín dụng”.

Thực hiện chủ trương đó, ngày 6/5/1951, tại hang Bòng thuộc xã Tân Trào (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 25/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam để thay thế Nha Ngân khố Quốc gia và Nha Tín dụng Sản xuất, trực thuộc Bộ Tài chính.

Cùng ngày, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 16/SL bổ nhiệm các ông Nguyễn Lương Bằng và Lê Viết Lượng làm Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Đây là bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển hệ thống tiền tệ - ngân hàng Việt Nam. Hệ thống tổ chức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam gồm Ngân hàng Trung ương, ngân hàng liên khu và ngân hàng tỉnh, thành phố. Trụ sở đầu tiên của Ngân hàng Quốc gia đặt tại xã Đầm Hồng (huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang).

Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được giao nhiệm vụ phát hành giấy bạc và điều hòa sự lưu thông tiền tệ; quản lý ngân quỹ quốc gia, đồng thời phụ trách việc phát hành công trái; cho vay vốn, góp vốn và huy động vốn của nhân dân nhằm phát triển sản xuất; quản lý tiền ngoại quốc và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài; quản lý kim dụng, gồm vàng, bạc, đá quý và giấy phiếu ngân hàng dùng để định giá tài sản theo thể lệ hành chính.

Ngân hàng Quốc gia Việt Nam hoạt động với vai trò kép, vừa là ngân hàng trung ương, vừa là ngân hàng thương mại. Hoạt động của Ngân hàng Quốc gia trong thời kỳ này đã góp phần quan trọng trong việc củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự chủ của đất nước, phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.

Ngày 12/5/1951, Ngân hàng bắt đầu phát hành tờ bạc ngân hàng thay thế Giấy bạc Tài chính với tỷ giá 1 đồng ngân hàng bằng 10 đồng tài chính. Việc phát hành tờ bạc ngân hàng vừa có tác dụng củng cố nền tài chính tiền tệ, vừa phù hợp với nguyện vọng nhân dân và tình hình kinh tế - xã hội thời gian đó. Đồng thời, ngân hàng xúc tiến việc triển khai công tác quản lý lưu thông tiền tệ và chấn chỉnh công tác tín dụng.

Việc phát hành tiền được tiến hành một cách có kế hoạch, có mức độ, chủ yếu để phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, hạn chế dần việc phát hành tiền cho chi tiêu tài chính. Đến cuối năm 1953, tỷ trọng phát hành cho chi tiêu ngân sách nhà nước chỉ còn 10,8% tổng số tiền phát hành; ngược lại, tỷ trọng phát hành cho tín dụng từ 0,6% vào năm 1951, đã tăng lên 30,6% vào năm 1952 và đến cuối năm 1953 đạt 89,2%.

Rõ ràng, đây là một trong những biện pháp tích cực để củng cố giá trị tiền tệ, ổn định vật giá và cân đối thu - chi ngân sách nhà nước.

Hồng Vân

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/chuyen-huy-dong-von-thuo-so-khai-d347527.html
Zalo