Chuyện học xưa & nay: Nhà khoa bảng một đời tài hoa
Không chỉ để lại dấu ấn qua thơ văn và những đền đài bề thế, Chu Mạnh Trinh còn để lại di sản về lòng yêu nước, đạo làm quan, làm người nhân nghĩa - xứng đáng là nhà khoa bảng tài hoa hiếm có cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20.

Đền Dạ Trạch và nghi môn nội đền Đa Hòa – nơi ghi dấu ấn Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh trong vai trò như một kiến trúc sư. Ảnh: ITN
Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905), người làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc xã Mễ Sở, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh ra trong một gia đình truyền thống khoa bảng. Cha ông là Chu Duy Tĩnh, từng giữ chức Ngự sử, nổi tiếng thanh liêm. Thừa hưởng truyền thống gia đình, từ nhỏ Chu Mạnh Trinh đã tỏ ra thông minh, ham học và sớm bộc lộ năng khiếu văn chương.
Vị quan chính trực giữa buổi giao thời
Theo các nguồn sử liệu đăng khoa, năm 19 tuổi, Chu Mạnh Trinh đỗ Tú tài rồi tìm đến học với Phó bảng Phạm Hy Lượng - một danh sĩ nổi tiếng đương thời, người huyện Thọ Xương, Hà Nội. Nhờ sự chăm chỉ và tư chất hơn người, Chu Mạnh Trinh nhanh chóng được thầy quý trọng và gả con gái.
Đến năm 1885 (khoa Bính Tuất), ở tuổi 25, Chu Mạnh Trinh đỗ Hương nguyên (đứng đầu khoa thi Hương). Bảy năm sau, tại khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1892), ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, trở thành một trong những nhân tài trẻ tuổi của đất nước thời bấy giờ.
Theo văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1892, triều Nguyễn lấy 9 người đỗ Tiến sĩ. Trong đó, Vũ Phạm Hàm đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, Nguyễn Thượng Hiền đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Chu Mạnh Trinh cùng 6 người khác đỗ hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Sau khi đỗ đạt, Chu Mạnh Trinh được bổ nhiệm làm Tri phủ Lý Nhân (tỉnh Hà Nội). Ông nổi tiếng là vị quan liêm chính, cương trực. Sử cũ còn ghi lại việc ông từng cho đánh roi một người Pháp vì hành vi lộng quyền, thể hiện tinh thần thẳng thắn hiếm thấy trong bối cảnh thực dân Pháp ngày càng lấn át triều đình.
Ít lâu sau, thân phụ ông là Chu Duy Tĩnh qua đời, Chu Mạnh Trinh xin cáo quan về cư tang theo lễ Nho gia. Khi trở lại chốn quan trường, ông tiếp tục được tín nhiệm giao chức Án sát tại nhiều tỉnh như Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh và Thái Nguyên.
Vua Đồng Khánh được Pháp dựng lên đã mạnh tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa, trong đó có cuộc khởi nghĩa tiêu biểu ở Bãi Sậy ở vùng đất Hưng Yên. Có lẽ vì vậy mà Chu Mạnh Trinh được điều ngay về làm Án sát Hưng Yên chính nơi quê hương mình để dẹp loạn?. Dẹp loạn đâu chưa thấy, nhưng tiếng đồn ông ngầm giúp cuộc khởi nghĩa bằng việc không xử tử các nghĩa sĩ đã lan vào tận triều đình. Có lẽ ông đã dự liệu triều đình trách tội nên tự từ quan. Năm 1905, Chu Mạnh Trinh qua đời khi mới 43 tuổi.

Chân dung nhà khoa bảng Chu Mạnh Trinh. Ảnh: ITN
Tuy nhiên, sách “Chu Mạnh Trinh – Hành trạng và Thơ văn” của tác giả Phạm Ngô Minh và Lê Minh Khiêm cho biết, bộ hồ sơ (ANV-RST ký hiệu 31087) lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, ghi chép về hành trạng của Án sát Chu do chính quyền Pháp quản lý. Trong hồ sơ này có nêu rõ: Chu Mạnh Trinh qua đời năm 1905 khi “đang tại chức”, chứ không phải “cởi áo từ quan” hay bị “bãi chức vì tham ô”.
Các văn bản trong hồ sơ cho thấy dù là quan của Nam triều, Chu Mạnh Trinh luôn bị nhà chức trách Pháp theo dõi sát sao, thậm chí có hai tài liệu thể hiện việc người Pháp nghi ông mua vũ khí và ngầm hỗ trợ phong trào Cần vương ở Bắc Kỳ.
Tập sách đã trích dịch và công bố nhiều tài liệu, làm sáng tỏ các “vụ án” mà giới nghiên cứu thường nhắc đến nhưng chưa rõ nội dung, liên quan đến các vụ xét xử do ông chủ trì tại Hà Nam giai đoạn 1899 - 1901, khi ông giữ chức Án sát ở đây. Những tư liệu này góp phần bác bỏ các lời buộc tội hay tố giác không xác thực về ông.
Cũng vì vậy, trong nhiều văn bản trao đổi nội bộ, quan chức Pháp tại Bắc Kỳ nhận xét Án Chu là “viên chức mẫn cán, trẻ tuổi, hoạt bát, năng nổ, hay chữ và rất thông tuệ”, nhưng không đủ trung thành với “mẫu quốc”. Có tài liệu còn nhấn mạnh: “Ông ta đáng nghi ngại đến nỗi tôi không thể tin tưởng viên quan này chút nào, và tôi hi vọng ông ta sẽ được theo dõi sát sao!”.

Bản rập văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Nhâm Thìn (1892) – khoa Chu Mạnh Trinh đỗ Tiến sĩ. Ảnh: ITN
Tài hoa vịnh Kiều lưu truyền sử sách
Mùa Xuân năm Ất Tỵ (1905), bên hồ Bán Nguyệt, Tổng đốc Hải Dương Lê Hoan tổ chức cuộc thi thơ vịnh Kiều. Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến được mời làm chủ khảo, còn Giải nguyên, Hiệp Biện Đại học sĩ Dương Lâm giữ vai trò Phó chủ khảo.
Cuộc thi quy tụ đông đảo kẻ sĩ đương thời, tạo thành Tao đàn Hưng Yên, gồm những tên tuổi như: Cử nhân, Tri huyện Hưng Yên Nguyễn Tấn Cảnh; Cử nhân, Tri phủ Khoái Châu Nguyễn Tri Đạo; Tú tài Phan Thạch Sơ (Hà Nội); Chu Tập Hi (cử nhân, làng Đào Xá, Kim Động, Hưng Yên); Nguyễn Kỳ Nam (cử nhân, Thanh Trì, Hà Nội); Đặng Đức Cường (cử nhân, làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, Nam Định); Phan Mạnh Danh (nhà thơ, dịch giả); Tú Trà (Nam Sang, Hà Nam)...
Tổng đốc Lê Hoan ra đề gồm hai nội dung lớn: vịnh “Kim Vân Kiều truyện” (hoặc ‘Thanh Tâm Tài nhân lục’). Thí sinh phải thực hiện ba yêu cầu: viết một bài tựa cho “Kim Vân Kiều truyện” bằng chữ Hán theo thể tứ lục; một bài tổng vịnh (đề từ); và 20 bài thơ Đường luật bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm dựa theo 20 hồi trong “Thanh Tâm Tài nhân lục”.
Kết quả, Chu Mạnh Trinh đoạt giải nhất thơ Nôm, còn Chu Tập Hi giành giải nhất thơ chữ Hán. Tuy nhiên, sau cuộc thi, nổi bật và được truyền tụng nhiều nhất chính là thơ vịnh Kiều của Chu Mạnh Trinh. Tài hoa của họ Chu dường như dồn trọn vào tập thơ này. Tiêu biểu có bài vịnh hồi 3 – Kiều thề nguyền với Kim Trọng:
“Dan díu vì ai luống ngẩn ngơ,/ Để ai gió đón lại trăng chờ/ Đào tơ đã ngỏ đường ong bướm/ Liễu yếu còn e trận gió mưa/ Lựa mối tơ tình năm ngón dạo/ Lập lờ lửa dục một lời thưa/ Giá trong muốn vẹn niềm băng tuyết/ Nào phải trăng hoa khéo ỡm ờ”.
Tương truyền, dù chấm giải nhất cho Chu Mạnh Trinh, nhưng ở bài vịnh hồi 9 – Kiều mắc lận Sở Khanh với câu: “Làng nho người cũng coi ra vẻ/ Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay”, Nguyễn Khuyến tỏ vẻ không bằng lòng, đã phê vào bên cạnh: “Rằng hay thì thực là hay/ Đem Nho đối xỏ lão này không ưa”.
Biết được lời phê, Chu Mạnh Trinh có phần phật ý. Khi làm Án sát ở Hưng Yên, nhân dịp Tết, ông gửi biếu Nguyễn Khuyến một chậu hoa trà - loài hoa “có sắc mà không hương”, như lời trách nhẹ rằng Nguyễn Khuyến “mắt lòa”, không nhận ra cái hay trong thơ. Hiểu được dụng ý ấy, Nguyễn Khuyến làm thơ đáp:
“Tết đến người cho một chậu trà/ Đương say còn biết cóc đâu hoa!/ Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,/ Áo tía đai vàng, bác đó a?/ Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá/ Gió to luống sợ lúc rơi già!/ Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,/ Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà!”.
Không chỉ để lại tập vịnh Kiều truyền đời, Chu Mạnh Trinh còn được biết đến qua “Trúc vân thi tập” và đặc biệt là bài ca trù “Hương Sơn phong cảnh ca” - một tuyệt tác đến nay còn phổ biến. Tương truyền, sinh thời ông là người cầm trống chầu tài hoa, nhịp gõ “mây vờn nước chảy”. Và trong “Hương Sơn phong cảnh ca”, những câu thơ chan chứa tình yêu thiên nhiên đã làm nên một vẻ đẹp thanh thoát, quyến rũ lòng người.

Một trong những tài liệu cổ liên quan đến Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh khi đang đương chức Án sát. Ảnh: ITN
Kiến trúc sư của đền thiêng Đa Hòa
Làm quan với công việc bộn bề, nhưng Chu Mạnh Trinh luôn trăn trở tạo dựng các giá trị văn hóa cho quê hương. Năm 1894, ông trực tiếp khởi xướng và tổ chức xây dựng ngôi đền thiêng thờ Thánh bất tử Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Chính ông là một kiến trúc sư khi là người trực tiếp phác thảo bản vẽ và đứng ra vận động xây dựng đền Đa Hòa (nay là xã Mễ Sở). Tương truyền, ngoài phần công đức của các gia đình hảo tâm trong vùng và thập phương, ông còn bổ theo xuất đinh, mỗi người năm quan để gây dựng công trình.
Theo Ban Quản lý di tích tỉnh Hưng Yên, vào thời Nguyễn, niên hiệu Thành Thái thứ 6 (1894), quan Án sát tỉnh Hưng Yên là Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh đã huy động nhân tài vật lực của nhân dân tám thôn thuộc tổng Mễ Sở cùng thập phương công đức, dựng lại đền trên nền cũ. Hiện khu đền tọa lạc trên diện tích 18.720m2 với 18 hạng mục lớn nhỏ, bố trí trên một trục thần đạo từ nhà bia đến Hậu cung.
Các công trình gồm Trấn giang lâu, lầu chuông, lầu khánh, ngọ môn; khu chính là các tòa Đại tế, Thiêu hương, đệ Nhị cung, đệ Tam cung và Hậu cung; hai bên có thảo xá, thảo bạt, nhà ngựa, phương đình. Việc thiết kế 18 nóc nhà là dụng ý của người kiến tạo nhằm gợi nhắc thiên tình sử của Tiên Dung – người con gái tròn 18 tuổi khi gặp Chử Đồng Tử, và cũng là chuyện tình diễn ra vào thời Hùng Vương thứ 18. Các mái đền đều tạo hình con thuyền, mũi cong, chia khoang đều đặn; nhìn từ sông hay từ đê đều thấy các mái nối tiếp như đoàn thuyền nhấp nhô ẩn hiện.
Khu đền vẫn giữ được nhiều nét kiến trúc thời Nguyễn, đặc biệt là các mảng chạm khắc tinh xảo ở tòa Đại bái và Thiêu hương. Dù một số hạng mục không còn nguyên vẹn như thuở ban đầu, những gì còn lại vẫn thể hiện quy mô bề thế, đồ sộ của công trình. Đền hiện lưu giữ nhiều hiện vật quý: lư hương, đôi lục bình men ngọc “bách thọ” trang trí 100 chữ Thọ không chữ nào giống chữ nào, có niên đại hàng trăm năm; 38 đạo sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn; cùng nhiều hoành phi, câu đối, châm, trướng có giá trị.
Hằng năm, lễ hội tại di tích diễn ra từ ngày 10 đến 12 tháng 2 âm lịch để tưởng nhớ công lao các vị thần. Lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung (hay lễ hội Đa Hòa – Dạ Trạch, lễ hội tình yêu) là một trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước. Đền Đa Hòa hiện còn bảo tồn nhiều di vật quý, trong đó có bút tích của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Với những giá trị đặc sắc ấy, đền Đa Hòa được Bộ VH,TT&DL xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1962.
Hoàn thành đền Đa Hòa, Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh tiếp tục tổ chức xây dựng đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Tây Sa tại Dạ Trạch. Không chỉ ở quê hương mình, ông còn là người thiết kế ngôi chùa Thiên Trù (chùa Trò) thuộc danh thắng Hương Tích, góp phần làm nên diện mạo kiến trúc đặc sắc của vùng đất Phật nổi tiếng.
Dù cuộc đời ngắn ngủi, Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong văn hóa và lịch sử khoa bảng Việt Nam, đặc biệt với khí chất thanh liêm, chính trực - nét tiêu biểu của một vị quan Nho học giữa thời giao thời đầy biến động. Để tưởng nhớ và tri ân những đóng góp của ông, nhiều tuyến đường tại Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, cũng như nhiều trường học, đã lấy tên Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh để ghi nhớ hình ảnh một con người tài hoa và tận tâm với đất nước.






























