Chuyện học xưa & nay: Hai nhà nho cùng tên, khác danh phận, cùng chí hướng
Cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, hai nhà nho cùng tên Võ Hoành là minh chứng sống cho tinh thần yêu nước.

Ảnh tư liệu.
Một người là chí sĩ trực tiếp đấu tranh chống thực dân; một người là Phó bảng, làm quan, lấy trung, tín và liêm sỉ làm lẽ sống.
Chí sĩ thời loạn
Chí sĩ Võ Hoành (1873 - 1946) người làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, nay là xã Đại Thanh (Hà Nội). Từ nhỏ, ông đã được thấm nhuần tinh hoa nho giáo - nền tảng trí thức, đạo đức và nhân cách, giúp ông hình thành tinh thần cương trực, ý chí kiên định ngay từ thuở thiếu thời.
Khi trưởng thành, Võ Hoành nhận thấy tri thức nho học truyền thống cùng con đường công danh quan trường không đủ để cứu nước. Trước bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, ông quyết định theo con đường trực tiếp đấu tranh cho dân tộc bằng hành động cụ thể.
Ông là người nhiệt tình yêu nước, coi thường lợi ích cá nhân, từ bỏ cả khoa cử và danh lợi, tích cực tham gia các phong trào yêu nước, nổi bật là Đông Du và Duy Tân. Năm 1907, ông cùng với các nhà yêu nước như Nguyễn Quyền, Lương Văn Can thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội, mô phỏng theo trường Khánh Ưng Nghĩa Thục ở Nhật Bản.
Mục tiêu của trường là khai dân trí, chấn dân khí, nâng cao tinh thần tự cường và truyền bá tư tưởng Duy Tân. Trường không thu học phí, còn cấp phát tài liệu học tập cho học sinh, giúp tất cả con em đều có cơ hội học hành. Võ Hoành được giao trọng trách vận động kinh phí, đồng thời tổ chức các hoạt động xã hội duy trì hoạt động của trường.
Trường nhanh chóng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của đồng bào yêu nước bằng tiền, sách vở, giấy, bút và bằng việc gửi con em theo học, với số học sinh lên đến gần một nghìn người. Đông Kinh Nghĩa Thục trở thành trung tâm của phong trào yêu nước sôi nổi, là nơi gieo mầm tri thức và tinh thần dân tộc. Tuy nhiên, chỉ sau chưa đầy một năm, trường bị thực dân Pháp đóng cửa; các lãnh đạo như Võ Hoành, Nguyễn Quyền, Lương Văn Can đều bị bắt và kết án đày ra Côn Đảo năm 1909.
Năm 1912, các ông được trả tự do nhưng bị đưa vào Nam an trí, mỗi người cư trú một nơi. Võ Hoành được chỉ định cư trú tại Sa Đéc, cùng gia đình sinh sống tại làng Tân Quy Đông. Ông kiếm sống bằng nghề xem mạch, bốc thuốc và dạy chữ nho, từ chối nhận trợ cấp 10 đồng mỗi tháng của chính quyền thực dân.

Chân dung Phó bảng Võ Hoành. Ảnh tư liệu
Dù việc đi lại và giao tiếp đều bị giám sát chặt chẽ, ông vẫn khéo léo duy trì liên lạc với nhiều nhà yêu nước khác như Nguyễn Sinh Sắc, Nguyễn Quang Diêu, Lê Văn Đáng, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng và giữ vững tinh thần yêu nước.
Với tính cách khảng khái, khí phách, cương trực, không khuất phục chính quyền thực dân, tiếng tăm của Võ Hoành ngày càng vang xa. Số học trò theo học ông ngày càng đông, nhiều gia đình từ Bến Tre, Long Xuyên, Cao Lãnh vẫn gửi con em đến thọ giáo. Cuộc sống kinh tế phần nào khá giả nhờ người vợ và con gái tảo tần buôn bán, ông lập một sở ruộng ở Ba Thê để cưu mang, và là nơi tá túc cho những người yêu nước gặp khó khăn trong cơn nguy biến.
Ông thường bày tỏ sự bực dọc, phẫn uất với chính quyền thực dân khi không đóng thuế thân, không treo cờ tam tài (cờ Pháp) trong ngày Quốc khánh 14/7, và thậm chí viết thơ bày tỏ nỗi chán nản, ngao ngán trước tình cảnh: Ngao ngán lòng tôi tối lại mai/ Lòng tôi, tôi biết giải cùng ai?/ Ngàn năm cố quốc hồn chưa tỉnh/ Hai chữ đồng tâm nét cũng phai!/ Mài lệ chép thơ phơi trước mắt/ Coi tiền như mạng bỏ ngoài tai/ Thôi thôi biết nói chi cho hết!/ Càng nói càng thêm nỗi thở dài.
Bên ngoài là vẻ bực dọc, nhưng ẩn sâu bên trong là lòng nhiệt thành yêu nước, luôn sục sôi ý chí cứu nước. Vào những năm 1940, dù tuổi đã cao, ông vẫn hăng say hoạt động bí mật. Khi Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ, một số thanh niên và học trò tín cẩn đã cùng ông tham gia khởi nghĩa. Ông bàn giao lực lượng này cho bà Trần Thị Nhượng (cô giáo Ngài), người lãnh đạo cuộc cướp chính quyền tại Sa Đéc.
Khi thực dân Pháp tái chiếm Sa Đéc, ông rút vào Đồng Tháp Mười, tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài. Do tuổi cao, Võ Hoành qua đời vào tháng 12/1946 và được an táng tại làng Mỹ Hội (Cao Lãnh), sau cải táng về Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Đồng Tháp.

Chân dung chí sĩ yêu nước Võ Hoành. Ảnh tư liệu
Làm người biết giữ trung, tín và có liêm sỉ
Trong lịch sử khoa bảng, vùng đất Quảng Nam nổi tiếng với những người học trò tài danh, những tấm gương sáng về trí tuệ, nhân cách và tinh thần vượt khó. Trong đó có Võ Hoành (1880 - 1947), tự là Tử Bình, quê làng Long Phước, tổng Mỹ Khê, nay thuộc xã Nam Phước, thành phố Đà Nẵng. Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ là minh chứng cho ý chí hiếu học vượt khó, mà còn là bài học về đạo thầy trò và nhân cách nho học.
Theo sử liệu và gia phả, Võ Hoành sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ không có nhà riêng, phải ở nhờ sau chái nhà người bác ruột. Cha ông ngày ngày gánh dầu phụng đi bán để kiếm sống. Tuy nhiên, từ nhỏ, Võ Hoành đã thể hiện sự thông minh, ham học và kiên nhẫn.
Sức học của ông sớm thu hút sự chú ý của các bậc thầy uyên bác trong vùng, đặc biệt là cụ Tú tài Trần Thế Thân và Trần Quý Cáp, những người không chỉ truyền dạy kiến thức, mà còn nuôi dưỡng nhân cách và ý chí cho học trò. Nhận thấy hoàn cảnh khó khăn của Võ Hoành, hai thầy đã cho ông ở trong nhà, nuôi cơm ăn học, một hành động chứa đựng lòng nhân hậu và niềm tin vào học trò.
Chính nhờ sự chăm sóc và dìu dắt của các thầy, Võ Hoành không phụ lòng mong mỏi của thầy, trở thành một học trò xuất sắc, nổi bật về trí tuệ và ý chí. Năm 1903, ông đỗ thủ khoa thi Hương tại trường thi Thừa Thiên, một kỳ tích đối với người xuất thân nghèo khó. Tin vui lan truyền trong họ hàng, bà con mừng rỡ dựng ngôi nhà nhỏ cho gia đình ông, vừa để đón tiếp, vừa để đãi đằng quan khách, thể hiện niềm tự hào và sự kính trọng đối với trí tuệ của Võ Hoành.
Mặc dù đã đạt được thành tích cao nhưng hoàn cảnh gia đình ông vẫn còn nhiều khó khăn. Võ Hoành không tham vọng kiếm lợi riêng từ học vấn, mà dùng khả năng của mình để giúp đỡ gia đình. Trong những khoa thi tiếp theo, ông không đi thi Hội mà đi thi thuê cho những người giàu có, dùng tiền thù lao để hỗ trợ gia đình. Chỉ đến năm Duy Tân thứ 4 (1910), Võ Hoành mới đi thi Hội và đỗ Phó bảng, cùng khoa với những người nổi tiếng như Hoàng Tăng Bí và Bùi Kỷ.

Căn nhà số 4 và số 10 (nhà trắng với 3 khung cửa vòng, phía bên phải ảnh) phố Hàng Đào, Hà Nội từng là cơ sở dạy học của Đông Kinh Nghĩa Thục. Ảnh tư liệu
Hoạn lộ của Võ Hoành khá suôn sẻ. Ông trải qua nhiều chức vụ quan trọng như Tri huyện Hương Thủy (Thừa Thiên), Phù Cát (Bình Định), Tri phủ Thạch Hà (Hà Tĩnh), Ninh Thuận (Phan Rang), Diễn Châu (Nghệ An), Tư Nghĩa (Quảng Ngãi); Án sát (Bình Định); và Tham tá Nội các kiêm Giám đốc Cổ học viện tại Huế.
Năm 1933, khi giữ chức Thị lang bộ Lại dưới thời vua Bảo Đại, Võ Hoành bị nhắc nhở vì trong nhà có bàn thờ của tử tù Trần Quý Cáp. Ông biện bạch rằng, thờ thầy là bổn phận của học trò, nếu không được phép thì thà bỏ quan. Sau đó, ông xin về hưu non như một cách phản đối nhưng vẫn giữ vẹn tròn đạo lý thầy trò.
Võ Hoành nổi tiếng là người khiêm tốn, hiền lành, ít nói nhưng khảng khái. Một đồng môn là nhà nho Nguyễn Sĩ Giác, sau là Giáo sư Hán văn Đại học Văn khoa Sài Gòn, kể rằng trong khoa thi năm 1910, trước khi hồi hương, các tân khoa được mời đến tòa Khâm sứ Pháp nhận vé tàu miễn phí. Nhân viên tỏ thái độ hách dịch, Võ Hoành liền đáp: “Chúng tôi đã đi bộ từ quê đến kinh để thi, thì cũng có thể đi bộ về”, rồi bỏ đi, mặc kệ sự can gián.
Với con cái, ông cũng giữ thái độ khiêm tốn, nghiêm khắc nhưng không phán xét. Con trai thứ Võ Thu Tịnh kể rằng Phó bảng Võ Hoành thường tư lự, ít nói nhưng luôn nhắc nhở con cháu về trung, tín và liêm sỉ. Khi con gái thứ tư Võ Thị Quảng bãi khóa để tang cụ Phan Châu Trinh năm 1926 hay Võ Thu Tịnh tham gia bãi khóa năm 1937, bị đuổi học, ông không hề than phiền hay quở mắng, chỉ âm thầm ủng hộ quan điểm đạo đức và chính nghĩa của con.
Tinh thần tôn sư của Võ Hoành cũng là một nét nổi bật. Ông giữ mối quan hệ sâu sắc với cả hai thầy cũ Trần Thế Thân và Trần Quý Cáp. Dù học với Trần Thế Thân chỉ một thời gian ngắn, ông vẫn hằng năm gửi lễ vật về tế cúng thầy. Năm 1928, khi đang làm quan lớn ở kinh, về quê làm lễ cho cha mẹ, ông không quên sang làng Phi Phú để tế, tỏ lòng biết ơn công ơn của thầy.
Khi dân làng rước ông bằng võng lọng, chiêng trống, ông vẫn từ chối, đi bộ đến nhà thầy để thể hiện sự kính trọng. Trong bữa cơm, ông ngồi bên cạnh, để chỗ chính giữa cho thầy, một hành động minh chứng cho lòng khiêm nhường và tôn sư trọng đạo.
Đối với thầy Trần Quý Cáp, Võ Hoành cũng thể hiện sự cung kính tuyệt đối. Khi Trần Quý Cáp bị hỏng thi năm 1903, trong khi Võ Hoành đỗ thủ khoa, thầy cười và nói: “Khoa này ta nhường học trò của mình đỗ thủ khoa”. Từ đó, Võ Hoành chưa bao giờ khoe khoang thành tích, luôn hầu hạ thầy như ngày chưa đỗ, ngồi nghe giảng kinh sách cùng đồng môn, thể hiện một tấm lòng trung hậu và đạo đức nho học.
Võ Hoành là minh chứng sống động cho ý chí vượt khó vươn lên trong học tập. Xuất thân nghèo, gia đình thiếu thốn, ông vẫn chăm chỉ học tập, vượt qua thử thách, đạt danh hiệu thủ khoa và phó bảng, đồng thời hỗ trợ gia đình và học trò khác. Cuộc đời ông là hành trình không ngừng nỗ lực, một tấm gương sáng cho các thế hệ học trò noi theo.
Ông còn được biết đến là một trong “lục tuyệt Quảng Nam”, danh hiệu dành cho 6 người Quảng Nam đỗ thủ khoa trong các khoa thi Hương, gồm: Phạm Phú Thứ (khoa thi năm 1842), Lê Vĩnh Khanh (khoa thi năm 1843), Nguyễn Hanh (khoa thi năm 1852), Phạm Liệu (khoa thi năm 1894), Huỳnh Thúc Kháng (khoa thi năm 1900), và Võ Hoành (khoa thi năm 1903).
Phó bảng Võ Hoành qua đời ngày 5/7/1947 trong vùng tản cư, thọ 67 tuổi. Mộ ông tọa lạc tại Nổng Bồ của vùng đất Duy Xuyên cũ. Tinh thần và nhân cách của Võ Hoành còn có giá trị lâu dài trong giáo dục, là hình mẫu lý tưởng cho những người học trò hôm nay. Ông nhắc nhở thế hệ trẻ, thành công không chỉ dựa vào tri thức, mà còn dựa vào phẩm hạnh, lòng trung tín, và sự khiêm nhường. Dù sống trong bối cảnh đất nước biến động, ông vẫn giữ trọn đạo lý, sống đúng với tinh thần của một người có học.
Dù đi những con đường khác nhau, hai nhà nho - chí sĩ Võ Hoành và Phó bảng Võ Hoành đều đem chí hướng yêu nước và cống hiến. Chí sĩ Võ Hoành dùng hành động trực diện, kiên cường; Phó bảng Võ Hoành dùng giáo dục và nhân cách để sống đúng mực giữa thời tao loạn. Tuy khác nhau về hành động, nhưng cả hai đều tin tri thức và đạo đức là nền tảng cho sức mạnh dân tộc.