Chuyện học xưa & nay: Giai thoại thú vị về hai vị Trạng nguyên triều Mạc

Nếu như Trạng nguyên Phạm Duy Quyết là người có nhiều tên gọi nhất trong lịch sử khoa bảng, thì Nguyễn Kỳ lại là Trạng nguyên duy nhất về chùa vinh quy bái tổ.

Nguyễn Kỳ là vị Trạng nguyên duy nhất tổ chức vinh quy bái tổ tại nhà chùa. Ảnh minh họa: ITN

Nguyễn Kỳ là vị Trạng nguyên duy nhất tổ chức vinh quy bái tổ tại nhà chùa. Ảnh minh họa: ITN

Hai vị Trạng nguyên sở hữu những cái nhất này đều là những nhà khoa bảng triều nhà Mạc. Họ không chỉ được trời phú tài năng thiên bẩm, mà sức học của họ còn là bài học đáng suy ngẫm để hậu thế noi theo.

Triều Mạc “sùng nho” giữa chiến loạn

Nhà Mạc được thành lập vào năm Đinh Hợi (1527) khi Mạc Đăng Dung chính thức đoạt ngôi nhà Lê. Chỉ vài năm sau, từ năm Quý Tỵ (1533), lực lượng trung thành với họ Lê lập nên chính quyền riêng ở vùng phía Nam, tức triều Lê trung hưng, tiến hành nhiều chiến dịch nhằm khôi phục quyền lực. Sự đối đầu giữa hai thế lực này kéo dài, tạo nên cục diện nội chiến Nam – Bắc triều suốt nhiều thập niên.

Ngay từ buổi đầu nắm quyền, để củng cố lòng dân, thu hút hiền tài và tăng cường sức mạnh cho triều đại, nhà Mạc vẫn xem nho giáo là nền tảng trị quốc, duy trì mô hình giáo dục và khoa cử theo khuôn mẫu triều Lê. Sử liệu thời Nguyễn, đặc biệt trong “Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu” của Nguyễn Bá Trác, vẫn nhắc đến nhà Mạc bằng cụm từ mang nhiều dư âm “Mạc thị sùng nho”, tức họ Mạc tôn sùng đạo nho.

Tinh thần trọng học ấy thể hiện rõ qua việc triều Mạc tiếp tục thờ phụng các bậc tiên hiền ở Văn Miếu và cho lập các văn chỉ tại nhiều địa phương. Riêng ở Thăng Long, triều đình nhiều lần tu sửa Văn Miếu – Quốc Tử Giám, đồng thời xây thêm các công trình như nhà Thái học, nhà Minh Luân, hành lang và hệ thống Xá sinh (Thượng xá sinh, Trung xá sinh…) làm nơi ăn ở cho học trò. Các vua nhà Mạc còn thường đến Văn Miếu tế lễ, khích lệ nho sinh chăm học và đề cao đạo học trong đời sống xã hội.

Nhà Mạc tổ chức kỳ thi đầu tiên vào năm Kỷ Sửu (1529). Việc mở trường thi không chỉ nhằm chọn người tài, mà còn hướng đến xây dựng đội ngũ trí thức trung thành, có khả năng phò tá cho triều đại. Chỉ trong 65 năm tồn tại với tư cách một vương triều (1527 - 1592), đóng đô tại Thăng Long, nhà Mạc đã tổ chức 22 khoa thi Hội, lấy đỗ 485 Tiến sĩ – một con số cho thấy sự coi trọng giáo dục và khoa cử.

 Ảnh minh họa: ITN

Ảnh minh họa: ITN

Theo lệ từ thời Lê, nhà Mạc cũng dựng bia Tiến sĩ để ghi danh người đỗ đạt. Tuy việc dựng bia không diễn ra liên tục, nhưng vẫn là minh chứng quan trọng cho chính sách khuyến học, khuyến tài của triều đại. Tấm bia Tiến sĩ đầu tiên dưới thời Mạc dựng năm Kỷ Sửu (1529), ngay sau khoa thi khai mở, đã khẳng định rõ chủ trương đề cao người hiền và trọng việc học.

Sống vào thời Lê mạt, Phạm Đình Hổ đã đưa ra nhiều nhận xét đáng chú ý về nền khoa cử dưới triều Mạc. Ông cho rằng giới tao nhân, văn sĩ thời ấy tuy có phần chạy theo lối học phù phiếm, không còn tinh tấn như thời Tiền Lê (Lê sơ), nhưng nhìn chung “thói học chưa đến nỗi hủ lậu”, nên trình độ học vấn, văn chương, khả năng trị chính và công nghiệp của người đương thời “cũng không kém cổ nhân mấy”.

Đáng chú ý là nhận xét của ông về chất lượng đề thi thời Mạc, thường gồm khoảng 200 chữ, đặt ra những vấn đề rộng, mang tính bao quát. Người dự thi phải nắm vững kiến thức cổ kim, thông suốt kinh sử mới có thể làm bài. Chính kiểu ra đề ấy giúp tuyển lựa được nhiều nhân tài thực học, điều mà “những đời gần đây” – tức khoa cử thời Lê trung hưng khó có thể sánh kịp. Ông còn khẳng định rằng từ đời Diên Thành trở về trước, truyền thống nghiêm cẩn và hiệu quả này trong khoa cử triều Mạc vẫn còn được giữ vững.

Giới sĩ phu đỗ đạt thời Mạc vì thế nổi bật với những tên tuổi rực sáng như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Phạm Trấn, Nguyễn Tuấn Ngạn… Họ không chỉ là biểu tượng của một thời kỳ khoa cử thịnh đạt, mà còn là những gương mặt tiêu biểu trong lịch sử khoa bảng.

 Tấm bia Tiến sĩ đầu tiên của nhà Mạc được dựng năm Kỷ Sửu (1529). Ảnh: T. Hòa

Tấm bia Tiến sĩ đầu tiên của nhà Mạc được dựng năm Kỷ Sửu (1529). Ảnh: T. Hòa

Vinh quy bái tổ tại chùa

Một trong những Trạng nổi bật của thời nhà Mạc là Nguyễn Kỳ sinh năm 1518, người làng Bình Dân, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Hạ (nay là xã Triệu Việt Vương, tỉnh Hưng Yên). Ông là nhà khoa bảng đỗ đạt cao nhất của huyện Đông Yên xưa, và để lại nhiều giai thoại thú vị.

Nguyễn Kỳ húy lúc nhỏ là Nguyễn Thời Lượng gắn với giai thoại “thần đồng chùa” bởi ngay từ khi mới ba, bốn tuổi, ông đã có thể đọc thuộc nhiều bộ kinh Phật. Tương truyền cha mẹ ông là những người hiền lành, sống cảnh nghèo khó và mãi đến tuổi tứ tuần vẫn chưa có con. Một hôm, gặp người am hiểu tướng số trong vùng, họ được phán rằng: “Ông bà sẽ sinh quý tử, nhưng số phải nương cửa Phật”.

Tin vào lời ấy, hai vợ chồng ngày ngày lên chùa dâng hoa, thắp hương lễ Phật. Hai năm sau, họ sinh được Nguyễn Thời Lượng. Khi tròn ba tuổi, cậu bé được gửi vào chùa làm con nuôi của nhà sư. Chỉ nghe tiếng tụng niệm mỗi ngày, cậu bé Lượng đã học thuộc kinh Phật một cách tự nhiên. Đến năm bốn tuổi, khả năng nhớ và đọc kinh trôi chảy của cậu khiến các nhà sư lẫn khách hành hương kinh ngạc, và từ đó danh xưng “thần đồng chùa” lan truyền khắp vùng.

Thời gian ở chùa, buổi sáng cậu được cho đi học chữ, buổi chiều trở về làm các công việc vặt trong chùa. Ban đêm, vì không có tiền mua dầu thắp đèn nên cậu bé cắp sách vào Tam bảo ngồi dưới chân tượng, học bài nhờ ánh sáng cây nến. Khi nến tắt hết mới đi ngủ. Sư thầy thấy vậy bèn thửa những cây nến dài hơn để cho cậu học.

Khoa Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hòa thứ nhất (1541) triều Mạc mở khoa thi, Nguyễn Thời Lượng tham gia ứng thí. Đến kỳ thi Đình, sư thầy nằm mơ thấy có người tên là Nguyễn Kỳ đỗ Trạng nguyên, bèn đổi tên Nguyễn Thời Lượng thành Nguyễn Kỳ. Quả nhiên khoa thi Đình năm ấy, ông đỗ Trạng nguyên khi mới 21 tuổi.

Ngày vinh quy bái tổ, tân Trạng nguyên Nguyễn Kỳ đã xin dân làng rước mình từ chùa - nơi ông được nuôi dưỡng thuở nhỏ để trước hết tạ Phật và tri ân sư thầy đã dày công dạy dỗ. Chính hành động này đã khiến Nguyễn Kỳ trở thành vị đại khoa duy nhất trong lịch sử khoa bảng tổ chức vinh quy bái tổ tại chùa.

Chỉ sau nghi lễ ấy, ông mới trở về bái kiến tổ tiên và cha mẹ. Câu chuyện cảm động về lòng biết ơn của ông nhanh chóng lan truyền vào cung. Nghe tin, vua Mạc Phúc Hải khen Nguyễn Kỳ là người “tận trung, tận hiếu”, biết trọng đạo nghĩa trước sau. Nhà vua vì thế đã bổ nhiệm ông vào Viện Hàn lâm, sau ông làm quan đến chức Hàn lâm thị thư.

 Bộ bút, nghiên, mực giấy bằng đá xanh lớn nhất Việt Nam tại Khu tưởng niệm Vương triều Mạc (Hải Phòng). Ảnh: ITN

Bộ bút, nghiên, mực giấy bằng đá xanh lớn nhất Việt Nam tại Khu tưởng niệm Vương triều Mạc (Hải Phòng). Ảnh: ITN

Trạng nguyên có nhiều tên gọi

Trạng nguyên Phạm Duy Quyết sinh năm 1521, người xã Xác Khê, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, xứ Hải Dương (nay là xã An Phú, tỉnh Hải Phòng). Ông là Trạng nguyên sở hữu nhiều tên gọi khác nhau nhất trong lịch sử khoa bảng. Ngoài tên Phạm Duy Quyết, ông còn các tên khác là: Phạm Đăng Quyết, Phạm Duy Áng, Phạm Duy Ưởng, Phạm Duy Trĩ.

Theo sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919”, cậu bé Phạm Duy Quyết mồ côi cha từ thuở nhỏ, gia cảnh nghèo khó nhưng được người mẹ tần tảo dốc sức nuôi nấng. Ngày con trai đến lớp học khai tâm, bà còn giết bò làm lễ tạ thần Phật, gia tiên và biếu thầy dạy học để bày tỏ kỳ vọng.

Thuở nhỏ, ông được đặt tên là Ưởng, đến khi đi học được thầy đổi tên thành Phạm Duy Quyết, chọn chữ “Quyết” có bộ ngọc với ngụ ý đứa trẻ sau này sẽ quý như ngọc. Từ bé, Quyết đã tỏ ra thông minh khác thường, học một biết mười, trí nhớ bền bỉ, lại có duyên ăn nói nên nhanh chóng vượt chúng bạn và nổi tiếng khắp vùng.

 Khu mộ tổ dòng họ Phạm – dòng họ Trạng nguyên Phạm Duy Quyết. Ảnh: ITN

Khu mộ tổ dòng họ Phạm – dòng họ Trạng nguyên Phạm Duy Quyết. Ảnh: ITN

Những giai thoại thuở chăn trâu còn cho thấy sự lanh lợi, sắc sảo và tư duy lý lẽ mạch lạc của ông. Câu chuyện cậu bé cưỡi bò đối đáp với trọc phú trong làng về tấm bia “hạ mã” khiến đối phương cứng họng là một trong những minh chứng sống động.

Chuyện kể rằng, có lần cậu bé Quyết chăn bò về, phải qua một cánh đồng có lăng mộ thân nhân của lão trọc phú. Ông ta hống hách cho dựng tấm biển “hạ mã” đặt ở hai đầu đường, có ý người cưỡi ngựa qua đây phải xuống dắt bộ qua khu mộ mới được đi tiếp. Thấy cậu bé đứng thẳng trên lưng bò đi qua, trọc phú sai gia nhân bắt giữ, quát hỏi: “Mày có biết phạm tội gì không? Mày không nhìn thấy tấm bia hạ mã này à?”. Cậu bé giả vờ: “Hạ mã là thế nào?”.

Lão trọc phú nói: “Là xuống ngựa, dắt ngựa qua đây để tỏ lòng kính trọng với cụ tổ nhà ta”. Quyết cười sằng sặc: “Thế thì ông sai rồi. Tôi là mục đồng. Từ thượng cổ đến giờ, mục đồng nào mà không cưỡi trâu, cưỡi bò? Không cưỡi mới ngu. Mà ông đề bia xuống ngựa chứ có cấm cưỡi bò đâu. Thôi, tôi về đây kẻo mẹ tôi chờ”. Vừa nói cậu vừa nhảy phắt lên lưng bò. Con bò cong đuôi chạy đi. Lão nhà giàu uất tận cổ vì đuối lý, lại còn bị nói cạnh khóe là ngu.

Không chỉ thông minh, Quyết còn ham học đến mức quên cả việc chăn bò. Có lần nghe trộm bài giảng tại một lớp học gần đường, cậu đứng lặng ngoài ngõ để nghe chuyện về tấm gương hiếu hạnh của Lục Tích. Vì mải mê, bò ăn gần hết vạt khoai của hàng xóm; người mẹ nghèo phải đem chục trứng gà sang xin tha lỗi. Câu chuyện cho thấy cái tâm trong sáng và sự nuôi dưỡng đức hiếu học trong hoàn cảnh cơ hàn.

Lớn lên, Phạm Duy Quyết nổi tiếng đối đáp sắc sảo. Một vị khách của thầy giáo từng thử tài ông bằng câu đối có ý răn dạy chí khí trượng phu. Quyết ứng khẩu đối lại bằng một câu hàm súc, gợi khí tượng bậc đế vương, khiến người khách phải khẳng định: “Đấy là tư tưởng của bậc đại khoa danh”.

Thế nhưng đường khoa cử của ông lại vô cùng lận đận. Dù học giỏi, ông thi mãi vẫn không đỗ, đến ngoài ba mươi tuổi vẫn còn lều chõng long đong. Mãi đến khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Quang Bảo 9 (1562) đời Mạc Phúc Nguyên, khi đã 42 tuổi, Phạm Duy Quyết mới đỗ Trạng nguyên.

Trong khoa thi này, ông và người thầy tên là Nguyễn Khắc Kính cùng ứng thí. Vì kính trọng thầy, Duy Quyết có ý định giảm bút lực của mình đi một chút để sao cho bài thi của thầy hơn bài thi của mình. Ông cho rằng đạo thầy trò là thầy phải ở trên trò. Nhưng Nguyễn Khắc Kính đoán được ý nghĩ ấy của học trò bèn nghiêm khắc nói:

“Thầy biết anh thực bụng muốn nhường ngôi thứ cao hơn cho thầy trong khoa thi này, nhưng thầy thấy làm như thế là sai. Anh phải phấn đấu hết sức mình để đạt danh vị cao nhất. Niềm vinh của anh chính là niềm vinh của thầy. Học trò mà vượt hơn thầy, đó chính là điều tốt đẹp trên đời”.

Nghe lời khuyên răn của thầy, Phạm Duy Quyết mới thật yên tâm trổ hết tài nghệ và kiến thức vào các quyển thi. Khoa thi năm ấy, ông đỗ Trạng nguyên, dưới ông một bậc chính là thầy học Nguyễn Khắc Kính, đỗ Bảng nhãn.

Theo sử liệu, Trạng nguyên Phạm Duy Quyết làm quan thanh liêm, giản dị, giữ các chức vụ quan trọng như Đông Các đại học sĩ, Tả thị lang, rồi Thượng thư bộ Lại. Sau này, ông được phong tước Xác Khê hầu. Gắn bó với quê nhà, ông từng tâu xin triều đình cho đắp con đường từ Xác Khê qua Thanh Lâm đến bến Hoàng Kênh, giúp dân đi lại an toàn. Con đường ấy về sau được gọi là “Dặm Tiều”, trở thành địa danh lưu truyền trong câu nói dân gian: “Thứ nhất thì dặm bà Hoa, thứ nhì dặm Liệt, thứ ba dặm Tiều”.

Trần Siêu

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/chuyen-hoc-xua-nay-giai-thoai-thu-vi-ve-hai-vi-trang-nguyen-trieu-mac-post761447.html