Chuyện học xưa & nay: Bậc danh nho đỗ cao được ba vua tri ngộ
Không chỉ là một danh nho tiêu biểu thời Lê trung hưng, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi còn là thầy dạy của ba vị vua Lê là Trung Tông, Anh Tông và Thế Tông.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi là người hiếm hoi làm thầy dạy ba vua. Ảnh minh họa: ITN.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi (1525 - 1595), người làng Cổ Bôn, xã Đông Thanh, tỉnh Thanh Hóa. Ông là con đầu trong một gia đình danh gia vọng tộc thời bấy giờ, có ông nội là Nguyễn Uyên làm quan tri huyện, được gia phong Thái bảo; thân phụ là Nguyễn Tứ làm Tham nghị Thái Nguyên, cũng được phong Thái bảo.
Người được chọn làm thầy của vua
Các nguồn sử liệu đăng khoa cho biết, từ nhỏ Nguyễn Văn Nghi đã nổi tiếng thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ học hành miệt mài đèn sách nuôi chí lớn, tiếp nối truyền thống gia tộc. Các nguồn sử liệu không ghi chép thầy dạy của ông là ai, song sống giữa ngôi làng khoa bảng Cổ Bôn nổi tiếng, có lẽ Nguyễn Văn Nghi được nhiều thầy giỏi trong làng dạy dỗ.
Năm Giáp Dần (1554) đời vua Lê Trung Tông, triều đình mở khoa thi, Nguyễn Văn Nghi tham gia ứng thí đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân. Văn bia khoa thi này do Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận, Hàn lâm viện Đãi chế Nguyễn Đăng Cảo vâng sắc soạn, có đoạn: “Năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình thứ 6 bắt đầu đặt Chế khoa, đích thân ra đề thi văn sách hỏi về đạo trị nước xưa nay.
Sai các quan Đề điệu, Tri Cống cử, Giám thí vâng mệnh khảo thí, trúng tuyển được 13 người, vâng mệnh dâng lên để Hoàng thượng ngự lãm, định thứ bậc cao thấp. Sắc ban cho bọn Đinh Bạt Tụy 5 người đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân, bọn Chu Quang Trứ 8 người đỗ Đệ nhị giáp đồng Chế khoa xuất thân. Cho dự yến tiệc và ban mũ áo, ơn vinh thật đầy đủ. Những người đỗ Chế khoa năm ấy vốn đều có tài kinh luân, cùng nhau đồng tâm hiệp lực, hiến kế vạch mưu, nhân tài nối nhau xuất hiện, dành dùng mấy đời cũng không hết”.
Theo thứ tự trên bảng đá đề danh, tên của Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi đứng thứ 2 sau Đinh Bạt Tụy, và đứng trên Nguyễn Sư Lộ, Phan Tất Thông, Đỗ Danh Đại trong hàng 5 người đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân.
Sau khi thi đỗ, vì nổi tiếng là người đoan chính, trọng khuôn phép nên Nguyễn Văn Nghi được Trịnh Kiểm tin cậy giao cho làm Hiệu lý Viện Hàn lâm, thường xuyên được giao hầu giảng cho nhà vua (vua Lê Trung Tông khi đó còn nhỏ). Sau khi vua Lê Trung Tông mất, Lê Anh Tông lên ngôi (1556), ông lại được vào giảng bài. Đến năm sau, lại được thăng chức Cấp sự bộ khoa kiêm quản lý tài chính, lần lượt giữ qua các chức Tả thị lang Binh bộ, Tống kí lục chính dinh.
Trong lịch sử, vua Lê Anh Tông được xác định là “chúa Chổm” trong truyền thuyết dân gian chứ không phải vua Lê Trang Tông như nhiều giai thoại xấu về vua Lê. Tên húy của Lê Anh Tông là Lê Duy Bang xuất thân là cháu năm đời của Lê Trừ, anh trai vua Lê Thái Tổ. Dòng họ Lê Duy đến Bố Vệ khoảng ba đời thì cụ Lê Duy Khoáng sinh ra Lê Duy Bang. Sớm mồ côi cha, nhà nghèo nên Duy Bang thường phải mò cua bắt ốc, cày thuê cuốc mướn giúp mẹ nuôi em.
Lê Duy Bang có biệt tài câu cá, hễ vác câu đi là có nhiều cá lớn đem về, nên nhà không chỉ đủ ăn, mà còn thừa để đem ra chợ Cầu bán. Nơi ông thường ngồi câu cá là vụng nước trên sông Vệ chảy qua làng, sau này gọi là Bến Quan. Tại đây, có một tảng đá to đẹp, tương truyền là nơi ông hay ngồi câu cá, nên gọi là hòn đá Chúa Chổm.

Cổng vào di tích đền thờ Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi.
Dạy vua bằng “rượu khuyến học”
Ca dao có câu “Chúa Chổm uống rượu tì tì”, mỗi lần ra chợ, gặp hàng rượu nào Lê Duy Bang cũng nếm, luôn miệng tấm tắc khen ngon. Hàng nào làm ông phật ý, thì cả ngày ế ẩm. Những hàng rượu mà ông khen thường được người ta đổ xô đến mua và nhanh chóng bán hết. Các chủ hàng thích lắm, thường mời mọc ông đến thử, biếu tặng rượu, mong nhờ vía tốt để mở hàng, đem lại may mắn. Thích uống rượu nhưng không có tiền nên ông thường phải mua chịu. Số nợ ngày một nhiều nhưng bà con không ai phiền lòng. Nợ mãi cũng ngại nên gặp chủ nợ nào Lê Duy Bang cũng cười đùa: “Bao giờ tớ làm vua, có nhiều tiền, sẽ đem trả”.
Khi Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, chúa Trịnh Kiểm tìm dòng dõi hoàng thân quốc thích nhà Lê nhưng không có ai, hoàng thân nhà Lê đều ở Bắc triều của nhà Mạc. Vào một đêm đang ngủ, phu nhân của Tiến sĩ Nguyễn Mậu Tuyên (sau này là Tể tướng nhà Lê) mộng thấy có người đến báo ngày mai sẽ có con cháu họ Lê tìm đến nhà. Tỉnh giấc, bà cho là điềm báo may mắn nên vội vàng sửa soạn nhà cửa để đón quý nhân. Tuy nhiên, đợi mãi tới buổi trưa mới thấy một người đàn ông thoạt nhìn bề ngoài lam lũ, quần áo tả tơi vào xin ăn.
Người lạ mặt trần tình, ông vốn là người buôn bán, nhưng vì gặp nạn sông nước mà gia tài mất hết. Nhìn kỹ lại người lạ mặt, vợ Nguyễn Mậu Tuyên thấy toát lên dáng vẻ sang quý, qua trò chuyện mới giật mình biết được đó là con cháu họ Lê. Bà mới báo cho chồng đang làm việc trong phủ chúa biết. Sau đó, Trịnh Kiểm cùng văn võ bá quan đã cùng nhau làm lễ cáo yết trời đất và tôn người đó lên làm vua, hiệu là Lê Anh Tông.

Văn bia đề danh khoa Giáp Dần (1554) - năm Nguyễn Văn Nghi đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân.
Sau khi lên ngôi, Lê Duy Bang - tức Lê Anh Tông bày tiệc lớn suốt nhiều ngày, có mời tất cả những người làng xã cùng đến chung vui. Do lượng người quá đông, làng không đủ chỗ, người ta bèn vạt tạm những thửa ruộng của làng vừa rỡ mạ xong làm nơi dựng rạp bày cỗ. Hai cánh đồng lớn đó mang tên Đồng Cỗ trong và Đồng Cỗ ngoài, ghi dấu nơi chúa Chổm trả ơn dân làng đã cưu mang mình thuở hàn vi.
Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ khi nhắc về chuyện thầy giáo Nguyễn Văn Nghi dạy Lê Duy Bang học đạo làm vua có kể rằng: Biết Lê Duy Bang ham rượu, thầy giáo Nguyễn Văn Nghi cấm người hầu đem rượu cho vua, chỉ khi nào vua thuộc một trang sách thì được uống một vò rượu. Ban đầu vua không chịu, sau vì thèm rượu quá mà phải theo. Từ một người rất lười học, nhà vua bỗng trở nên chăm chú chuyên cần, ngày đầu đã thuộc hai trang. Thế rồi “rượu khuyến học” đem dâng nhiều dần, đến mức thầy giáo phải sai lính tráng pha thêm nước vào rượu để nhà vua giữ gìn long thể.
Năm 1580 đời Lê Thế Tông, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi được bổ làm Tả thị lang bộ Lại, vào hầu trong điện Kính Thiên kiêm Đông các học sĩ. Lúc đó, vì vua Lê Thế Tông còn ít tuổi nên Nguyễn Văn Nghi được chọn làm thầy dạy. Nhờ công dạy dỗ của ông mà về sau, vua Lê Thế Tông trở thành một trong những vị vua có công khôi phục cơ nghiệp nhà Hậu Lê.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” nhận xét về vua Lê Thế Tông, đã viết: “Vua tuổi còn thơ ấu, tin dùng huân thần, nên dẹp yên được kẻ tiếm nghịch, khôi phục được cơ nghiệp cũ, làm nên thái bình. Công trung hưng còn gì lớn hơn thế”.
Là thầy dạy của ba vua Lê, ông rất mực được vua tin tưởng. Thế nhưng không vì thế mà ông tự mãn, kiêu căng. Ngược lại, càng được vua tin ông càng tỏ ra cúc cung tận tụy, làm tròn bổn phận làm thầy, làm tôi trung. Không những vậy, ông còn ra sức giương cao đạo học ở quê nhà, nhiệt thành giúp đỡ các nho sinh; có lộc vua ban, ông lại ban tiền của cho học trò để họ có thể tiếp tục theo đuổi nghiệp lều chõng.

Voi đá trong khuôn viên di tích.
Đại khoa được phong Phúc thần
Năm 1595, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi tạ thế. Vì là thầy dạy của ba vị vua nên khi mất, vua Lê Thế Tông đã truy tặng ông là Thượng thư bộ Công, tước Thái bảo và được ban thụy hiệu Phúc Khê tướng công và ban cho 30 mẫu ruộng dùng thu lộc lo hương hỏa.
Dân làng lập đền thờ Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi gọi là “Phúc Khê Tướng công từ” như một cách để báo ân và nhớ tới công lao của một nhà khoa bảng, làm quan lớn nhưng luôn nhớ về quê hương, xiển dương sự học. Mỗi khi có chuyện liên quan tới học hành thi cử, học trò trong làng trong tổng lại đến thắp nhang mong được công thành danh toại.
Học trò xưa xem ông như bậc thầy gương sáng để noi theo, đúng như lời văn bia lưu tại đền thờ: “Ông là bậc đại khoa, ngôi cao chốn triều trung, được khí thiêng của trời đất chung đúc, được tôn làm Phúc thần. Vinh hoa chồng chất, phúc đức cao dày. Phúc cho nước, phúc cho dân, phúc cho con cháu, phúc cho dòng dõi... công danh chói lọi, rạng rỡ muôn đời, con cháu được hưởng tiếng thơm lâu dài với dương thế”.

Bia đá cổ bảo lưu trong khuôn viên đền thờ.
Theo nội dung văn bia, đền thờ Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi được khởi dựng năm 1617, là một quần thể kiến trúc quy mô bề thế, giá trị nghệ thuật cao. Di tích bao gồm nhiều công trình nhỏ, đa chức năng theo kiểu “nội công ngoại quốc” với hào thành bao quanh. Bên trong thành nội là kiến trúc gỗ xây theo hình chữ “công”, chữ “tam”, chữ “nhị”, chữ “nhất”. Bên ngoài cổng thành là hệ thống tượng chầu bằng đá (võ sĩ, voi đá, ngựa đá, chó đá) nhiều kích cỡ; văn bia, giếng đá... với kỹ thuật tạo tác, chạm trổ công phu, tinh xảo.
Thiết kế cổng đền thờ khiến người nay liên tưởng đến công trình kiến trúc Thành nhà Hồ. Cổng dẫn vào đền có hình mái vòm với một cửa duy nhất, kết hợp giữa kỹ thuật xếp đá (thành cổng) và gạch xây (phía trên nóc). Trên cổng có khắc ba chữ Hán “Tướng công môn”, phía trên nóc còn có cặp rồng ấp - điều rất ít gặp ở các di tích.
Tường đá bao bọc cao tới gần 2m, bề rộng 1,5m dựng bằng hai hàng đá tảng, ở giữa đổ đất nện, phía trên là những phiến đá hình mai rùa. Bên phải lối vào đền chính có một lối nhỏ dẫn vào nơi thờ bà Quận Đăng (vợ Đăng Quận công Nguyễn Khải), người đã thay chồng chăm lo việc thờ tự cha Nguyễn Văn Nghi.
Tại đền thờ còn lưu giữ hai tấm văn bia bằng đá nguyên khối kích thước lớn, có bề rộng hơn 2,5m, đối xứng hai bên. Một bia ghi thân thế, sự nghiệp của Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi. Bia còn lại có niên đại năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628), ghi công đức và việc cung tiến của người dân địa phương. Năm 1990 đền thờ Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Là một nhà khoa bảng lớn, con cháu Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi cũng nối chí cha ông, trở thành những vị trọng thần triều Lê. Trong đó, con trai thứ hai của ông là Nguyễn Khải làm đến chức Binh bộ Thượng thư và là bậc Quốc lão của nhà Hậu Lê. Cháu nội ông là Nguyễn Văn Lễ, đỗ Hoàng giáp khoa Nhâm Dần (1602, đời Lê Kính Tông) sau làm đến Hàn lâm viện hiệu lý. Người cháu ngoại tên là Lê Khắc Tuy làm tới chức Tri phủ Hà Trung. Với công lao đối với triều đình, sử gia nhà Nguyễn là Phan Huy Chú đã nhận định Tiến sĩ Nguyễn Văn Nghi “là bậc danh nho đỗ cao, được ba vua tri ngộ, sự nghiệp và tiếng tăm hơn cả các nho thần đầu thời trung hưng”.