Chuyên gia nước ngoài hướng dẫn độc lập NCS: Cần quy định chuẩn tối thiểu số công bố quốc tế
Theo đại diện một số CSGDĐH, thu hút chuyên gia có uy tín quốc tế hướng dẫn nghiên cứu sinh độc lập sẽ phát huy hiệu quả nếu có lộ trình cụ thể, rõ ràng.
Việc thu hút các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành quốc tế tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh độc lập tại Việt Nam mang lại nhiều lợi ích quan trọng. Sự hiện diện của họ giúp nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ với các phương pháp nghiên cứu tiên tiến. Đồng thời, đây là cơ hội để nghiên cứu sinh Việt Nam được rèn luyện trong môi trường học thuật đa văn hóa, hình thành tư duy phản biện, kỹ năng công bố quốc tế và khả năng hợp tác xuyên biên giới.
Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, mỗi nghiên cứu sinh có 1 hoặc 2 người hướng dẫn, trong đó có 1 người là cán bộ cơ hữu của cơ sở đào tạo hoặc có hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu khoa học với cơ sở đào tạo theo quy định của pháp luật. Theo lãnh đạo, đại diện một số cơ sở giáo dục đại học, điều này dẫn đến tình trạng dù chuyên gia là giáo sư đầu ngành hay nhà khoa học có uy tín quốc tế vẫn không thể hướng dẫn độc lập nếu không làm việc tại cơ sở đào tạo.
Từ đó, nhiều ý kiến cho rằng, việc cân nhắc phương án cho phép chuyên gia nước ngoài có uy tín học thuật quốc tế được hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh không bắt buộc thông qua cơ chế “đồng hướng dẫn” là cần thiết và phù hợp với xu hướng quốc tế.
Quy định về người hướng dẫn nghiên cứu sinh đã bộc lộ hạn chế, chưa khuyến khích hợp tác quốc tế
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên cho biết, hiện nay, Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT yêu cầu ít nhất một trong hai người hướng dẫn nghiên cứu sinh phải công tác tại cơ sở đào tạo.
Quy định này được đặt ra nhằm bảo đảm trách nhiệm và sự gắn kết giữa cơ sở đào tạo với nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, trên thực tế, quy định này cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định.
Thứ nhất, việc huy động chuyên gia quốc tế trong các lĩnh vực hẹp hoặc liên ngành gặp nhiều khó khăn, do Việt Nam còn thiếu đội ngũ có đủ năng lực chuyên sâu để cùng đồng hướng dẫn.
Thứ hai, quy định trên làm giảm tính linh hoạt trong hợp tác khoa học, bởi yêu cầu “đồng hướng dẫn” đôi khi chỉ mang tính hình thức, trong khi vai trò hướng dẫn thực chất lại chủ yếu do chuyên gia quốc tế đảm nhiệm.
Thứ ba, điều này khiến các cơ sở đào tạo chưa tận dụng được tối đa chất lượng học thuật và mạng lưới quốc tế mà chuyên gia nước ngoài có thể mang lại, nhất là trong bối cảnh cơ sở đào tạo trong nước đang thúc đẩy quốc tế hóa và hội nhập học thuật.
“Quy định trên từng phù hợp trong giai đoạn trước, nhưng đang dần bộc lộ hạn chế khi giáo dục nước ta bước vào thời kỳ tự chủ và hội nhập sâu rộng”, thầy Nghĩa nhận định.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: website nhà trường
Từ thực tế trên, thầy Nghĩa cho rằng, việc cho phép chuyên gia nước ngoài có uy tín học thuật quốc tế được hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh, không bắt buộc thông qua cơ chế “đồng hướng dẫn” là một hướng đi đúng đắn và cần thiết nếu được triển khai minh bạch, có cơ chế hậu kiểm rõ ràng.
Việc này phù hợp với thông lệ quốc tế, nơi tiêu chí hướng dẫn dựa trên năng lực học thuật thay vì đơn vị công tác. Bên cạnh đó, hướng đi này còn thúc đẩy chất lượng nghiên cứu sinh tiến sĩ theo chuẩn quốc tế, tạo cơ hội để các đề tài có tính mới, tính ứng dụng và khả năng công bố cao hơn. Đồng thời, giúp các cơ sở đào tạo trong nước tăng cường liên kết nghiên cứu toàn cầu, góp phần nâng cao uy tín khoa học và xếp hạng học thuật.
Điều quan trọng là cần xây dựng cơ chế thực hiện chặt chẽ, bảo đảm kiểm soát được chất lượng, thay vì lo ngại rủi ro mà đánh mất cơ hội hội nhập quốc tế.
Đồng tình với quan điểm trên, Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn - Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, quy định hiện hành tại Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT về người hướng dẫn nghiên cứu sinh là cần thiết, nhằm đảm bảo cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm trực tiếp trong toàn bộ quá trình đào tạo và hướng dẫn nghiên cứu sinh. Cơ chế này giúp kiểm soát chất lượng, bảo vệ quyền lợi người học và giữ sự thống nhất trong quản lý đào tạo trình độ tiến sĩ.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, quy định ấy cũng bộc lộ một số hạn chế. Hiện nay, nếu chuyên gia nước ngoài không thuộc biên chế hoặc không có hợp đồng chính thức với cơ sở đào tạo trong nước, họ chỉ được tham gia với vai trò đồng hướng dẫn, hạn chế tính linh hoạt và tiềm năng hợp tác quốc tế.
Thầy Sơn bày tỏ quan điểm: “Theo tôi, cần xây dựng các quy định cụ thể nhưng linh hoạt hơn, cho phép các cơ sở đào tạo chủ động mời các chuyên gia trong và ngoài nước có năng lực, uy tín và cam kết hợp tác lâu dài tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh. Mục tiêu cuối cùng là lựa chọn được đội ngũ chuyên gia trình độ cao, có uy tín học thuật, đồng thời có định hướng hợp tác nghiên cứu bền vững với các trường đại học trong nước”.
Bên cạnh đó, Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn cũng cho hay, việc cho phép chuyên gia nước ngoài có uy tín hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh là một đề xuất tích cực, phản ánh xu hướng mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo tiến sĩ. Tuy nhiên, việc triển khai cần có kế hoạch, lộ trình cụ thể, cơ chế quản lý rõ ràng để bảo đảm chất lượng của cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh.
Do hướng dẫn nghiên cứu sinh thường kéo dài 2-3 năm, đòi hỏi sự gắn bó và trách nhiệm lâu dài, nên cần ưu tiên các chuyên gia từ cơ sở giáo dục nước ngoài có thỏa thuận hợp tác chính thức với trường Việt Nam, hoặc những chuyên gia từng giảng dạy, nghiên cứu và am hiểu môi trường học thuật trong nước.
Bên cạnh đó, cần đảm bảo các tiêu chuẩn học thuật, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời dự liệu những khác biệt có thể phát sinh trong quá trình hướng dẫn, như khác biệt về văn hóa học thuật, ngôn ngữ, quy chuẩn nghiên cứu, cũng như sự khác nhau trong phương pháp đánh giá, cách làm việc và chuẩn đầu ra.
Như vậy, việc mở rộng cơ chế hướng dẫn độc lập là cần thiết, nhưng phải có chọn lọc, quy định rõ ràng và kiểm soát chất lượng chặt chẽ, nhằm vừa phát huy nguồn lực quốc tế, vừa bảo đảm quyền lợi nghiên cứu sinh và giữ sự thống nhất trong quản lý đào tạo trình độ tiến sĩ.

Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn - Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC
Trong khi đó, Tiến sĩ Võ Thái Dân - Trưởng phòng, Phòng Quản lý đào tạo Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Theo tôi, không nhất thiết quy định người hướng dẫn nghiên cứu sinh cần phải công tác tại cơ sở đào tạo. Việc yêu cầu người hướng dẫn phải công tác tại cơ sở đào tạo vô tình hạn chế các hướng nghiên cứu mới, đặc biệt trong những lĩnh vực đang phát triển nhanh chóng.
Điều quan trọng là người hướng dẫn đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chuyên môn do Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như nhà trường trường đặt ra. Cùng với đó, họ cam kết đảm bảo đủ thời gian hướng dẫn nghiên cứu sinh và cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả việc tuân thủ liêm chính học thuật”.
Theo thầy Dân, việc cho phép các chuyên gia nước ngoài có uy tín học thuật quốc tế hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh giúp tiếp cận nhanh chóng và hiệu quả các vấn đề, lĩnh vực nghiên cứu mới. Với các chuyên gia uy tín quốc tế, yếu tố quan trọng nhất là năng lực khoa học, đạo đức nghề nghiệp và liêm chính học thuật. Cùng với đó, số lượng công bố khoa học vẫn là một tiêu chí tham khảo bổ sung.
Ngoài ra, việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo trong việc thẩm định năng lực, kiểm soát chất lượng hướng dẫn và bảo đảm chuẩn đầu ra của nghiên cứu sinh là hợp lý, bởi không ai hiểu rõ đối tác bằng chính cơ sở giáo dục. Khi trao quyền này, cần đặt niềm tin vào khả năng quản lý của cơ sở đào tạo, đồng thời thiết lập cơ chế kiểm soát, giám sát và xử lý vi phạm để đảm bảo chất lượng và tính minh bạch của quá trình đào tạo.

Tiến sĩ Võ Thái Dân - Trưởng phòng, Phòng Quản lý đào tạo Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC
Cần quy định rõ tiêu chuẩn tối thiểu về số lượng công bố quốc tế đối với chuyên gia, song nên linh hoạt theo từng lĩnh vực
Theo Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên, việc cho phép chuyên gia có uy tín học thuật quốc tế được hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh có thể mang lại ba nhóm lợi ích lớn.
Thứ nhất, về học thuật, nghiên cứu sinh sẽ được tiếp cận trực tiếp với phương pháp nghiên cứu, tiêu chuẩn học thuật và đạo đức khoa học quốc tế; đồng thời có cơ hội tham gia mạng lưới công bố, hội thảo và dự án toàn cầu.
Thứ hai, về uy tín và hội nhập, các cơ sở đào tạo có thêm sản phẩm khoa học đạt chuẩn cao, mở rộng hợp tác quốc tế và nâng cao vị thế, xếp hạng trong khu vực cũng như trên thế giới.
Thứ ba, về đào tạo nguồn nhân lực, điều này góp phần hình thành đội ngũ tiến sĩ có tư duy toàn cầu, năng lực công bố và hợp tác quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa.
Cùng với đó, thầy Nghĩa cho rằng cần quy định rõ tiêu chuẩn tối thiểu về số lượng công bố quốc tế đối với chuyên gia nước ngoài được phép hướng dẫn độc lập nghiên cứu sinh, song nên linh hoạt theo từng lĩnh vực. Với các ngành đặc thù hoặc thuộc khối nghệ thuật, sáng tạo, có thể thay thế bằng minh chứng uy tín học thuật tương đương như giải thưởng quốc tế, dự án, hay công trình ứng dụng được giới chuyên môn thừa nhận rộng rãi.
Tiêu chuẩn này không chỉ nhằm bảo đảm năng lực chuyên môn và khả năng hướng dẫn, mà còn thể hiện trách nhiệm học thuật của chuyên gia quốc tế khi tham gia vào hệ thống đào tạo tiến sĩ của Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc trao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo trong việc kiểm định năng lực, giám sát chất lượng hướng dẫn và đảm bảo chuẩn đầu ra của nghiên cứu sinh là xu hướng tất yếu. Song, điều này phải đi kèm với trách nhiệm giải trình rõ ràng và cơ chế kiểm định độc lập để bảo đảm tính minh bạch và chất lượng đào tạo.
Cơ sở đào tạo cần được chủ động trong việc thẩm định và công nhận năng lực của người hướng dẫn, bao gồm cả chuyên gia nước ngoài; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng hướng dẫn và chuẩn đầu ra tiến sĩ theo chuẩn quốc tế; đồng thời thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ (internal audit) và công khai kết quả kiểm định định kỳ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tập trung vào việc thiết lập khung chuẩn và cơ chế hậu kiểm, thay vì quản lý quá chi tiết vào từng khâu cụ thể. Khi đó, quyền tự chủ sẽ thực sự trở thành động lực nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của giáo dục Việt Nam.
Trong khi đó, Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, nếu được triển khai có chọn lọc và kiểm soát chặt chẽ, việc cho phép chuyên gia có uy tín học quốc tế tham gia hướng dẫn nghiên cứu sinh độc lập có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Trước hết, việc mời các chuyên gia quốc tế uy tín trực tiếp hướng dẫn nghiên cứu sinh sẽ mở rộng không gian học thuật, giúp người học tiếp cận phương pháp nghiên cứu hiện đại, chuẩn mực quốc tế và mạng lưới công bố khoa học toàn cầu.
Tiếp đó, cơ chế này sẽ thúc đẩy hợp tác học thuật, hình thành các nhóm nghiên cứu chung, đồng công bố và đồng hướng dẫn giữa các trường trong nước và quốc tế, từ đó nâng cao vị thế và uy tín chương trình tiến sĩ của nước ta, giúp bằng tiến sĩ trong nước được công nhận rộng rãi trên thế giới.
Tuy nhiên, việc hợp tác hướng dẫn quốc tế cũng có thể gặp một số khó khăn nhất định, bao gồm khác biệt về văn hóa học thuật và cách tổ chức đào tạo; sự khác nhau về phương pháp hướng dẫn, tiêu chuẩn đánh giá hay tiến độ làm việc; và chênh lệch về điều kiện cơ sở vật chất, nguồn dữ liệu hoặc quy định công bố.
Do đó, để chính sách này có thể phát huy hiệu quả, cần xây dựng quy định rõ ràng về quy trình, quyền hạn và trách nhiệm của người hướng dẫn, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát, đánh giá định kỳ, nhằm bảo đảm quyền lợi của nghiên cứu sinh và chất lượng đầu ra của chương trình.
































