Chuyên gia góp ý cách bố trí, sử dụng giảng viên quốc tế khi đào tạo chương trình xuất sắc
Tỷ lệ giảng viên nước ngoài tham gia dạy chương trình tài năng cần xây dựng theo cách hướng đến chuẩn quốc tế và gắn với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ ra, việc còn thiếu cơ chế riêng cho việc đào tạo, bồi dưỡng đặc thù; môi trường nghiên cứu trong nước chưa đáp ứng kỳ vọng là một trong những nguyên nhân khiến phần lớn học sinh đạt giải cao tại các cuộc thi Olympic khu vực và quốc tế đều chọn đi du học, nhiều em ở lại nước ngoài sau khi tốt nghiệp.
Đại diện một số cơ sở giáo dục đại học cho rằng, yếu tố giảng viên là vô cùng quan trọng để thực hiện các chương trình đào tạo đặc thù, chuyên sâu dành cho các đối tượng trên. Đặc biệt, phải thực hiện song song việc mời giảng viên quốc tế cũng như nâng cao năng lực của giảng viên trong nước.
Để có chương trình đào tạo thu hút tài năng cần đội ngũ giảng viên chất lượng
Nhấn mạnh vai trò của đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) cho biết, để xây dựng các chương trình đào tạo đại học và sau đại học xuất sắc, đủ sức thu hút học sinh đạt giải Olympic và sinh viên quốc tế, đội ngũ giảng viên chính là yếu tố quyết định.
Trong đó, Nghị quyết số 71-NQ/TW đặt mục tiêu tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài là chủ trương đúng đắn, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển các ngành công nghệ mũi nhọn. Do đó, cần tập trung ưu tiên tuyển dụng giảng viên cho những lĩnh vực chiến lược có tác động lớn.
Đầu tiên là công nghệ bán dẫn và vi mạch. Đây là ngành nền tảng cho chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và công nghiệp 4.0. Việt Nam đang rất thiếu chuyên gia đầu ngành để xây dựng chương trình đào tạo chuẩn quốc tế.
Năng lượng mới và công nghệ hạt nhân, gắn với chiến lược phát triển năng lượng bền vững, năng lượng sạch và yêu cầu đảm bảo an ninh năng lượng trong dài hạn cũng cần được quan tâm.
Trí tuệ nhân tạo, robot, tự động hóa và khoa học dữ liệu là lĩnh vực sẽ quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia và đang thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cũng không thể bỏ qua công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học – y sinh, môi trường. Những hướng này có giá trị ứng dụng rộng, phục vụ công nghiệp chế tạo, y tế và phát triển bền vững.
Để lựa chọn giảng viên quốc tế về Việt Nam giảng dạy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu nêu 3 nhóm điều kiện.
Về năng lực học thuật, chuyên gia cần có bằng tiến sĩ từ các cơ sở thuộc top thế giới; hồ sơ nghiên cứu có các công bố Q1 hoặc sở hữu bằng sáng chế; có kinh nghiệm tham gia dự án quốc tế lớn hoặc đã dẫn dắt nhóm nghiên cứu.
Bên cạnh đó, phải phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam. Chuyên gia có khả năng xây dựng chương trình đào tạo mới; kết nối với doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ; góp phần nâng cấp năng lực nghiên cứu của nhóm giảng viên trong nước.
Cuối cùng, chuyên gia cần cam kết đóng góp lâu dài, sẵn sàng hướng dẫn đội ngũ trẻ; có hợp đồng trung hạn hoặc giải pháp giữ chân phù hợp; cam kết xây dựng nhóm nghiên cứu tại Việt Nam, tránh tình trạng làm việc một thời gian và tìm công việc khác.
"Nếu chúng ta tuyển chọn đúng người, đúng lĩnh vực, đúng nhu cầu chiến lược thì 2.000 giảng viên quốc tế sẽ trở thành lực lượng nòng cốt để nâng tầm giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn 2030–2045" - thầy Hiếu khẳng định.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NVCC.
Theo quan điểm của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), thách thức cốt lõi để xây dựng các chương trình đại học và sau đại học xuất sắc nằm ở việc phải bảo đảm đủ nguồn giảng viên chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế, có năng lực giảng dạy, nghiên cứu ở mức tiên tiến và quan trọng hơn là tạo được môi trường để họ phát huy tối đa năng lực chuyên môn của mình.
Để tuyển dụng giảng viên quốc tế phù hợp theo Nghị quyết số 71-NQ/TW, thầy Vũ nói: "Nguyên tắc chung là chúng ta chỉ nên tuyển dụng ở những ngành, lĩnh vực mà trong nước có nhu cầu thật sự. Khi Nhà nước đã xác định rõ các ngành chiến lược như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng nguyên tử, công nghệ sinh học, vật liệu mới, hay năng lượng tái tạo thì việc thu hút giảng viên quốc tế cũng phải tập trung vào đúng những lĩnh vực này để tạo ra tác động lớn và nhanh nhất.
Để tuyển chọn đúng người, điều quan trọng nhất là phải xác định rõ ràng: cần bao nhiêu giảng viên, cần ở phân ngành nào, cần năng lực nghiên cứu hay giảng dạy ra sao, cần họ đóng vai trò gì trong hệ sinh thái đào tạo, nghiên cứu? Chỉ khi xác định được nhu cầu thực chất, chúng ta mới xây dựng được bộ tiêu chí tuyển chọn phù hợp.
Không chỉ năng lực chuyên môn, hồ sơ công bố hay kinh nghiệm quốc tế, cũng cần đặc biệt quan tâm đến “động cơ” và mong muốn thực sự của ứng viên khi lựa chọn Việt Nam. Nếu ứng viên giỏi nhưng mục tiêu của họ không gắn với sự phát triển lâu dài tại Việt Nam, hoặc họ chỉ xem đây như điểm dừng ngắn hạn sẽ rất khó để kỳ vọng họ cống hiến bền vững, xây dựng nhóm nghiên cứu, hay hỗ trợ đào tạo đội ngũ trong nước.
Bởi vậy, cần đánh giá các yếu tố như cam kết thời gian, khả năng thích nghi văn hóa, mong muốn làm việc trong môi trường đang phát triển, tinh thần chia sẻ tri thức và dẫn dắt đội ngũ trẻ. Chỉ khi cả “năng lực” và “động lực” đều phù hợp thì giảng viên quốc tế mới thực sự phát huy được vai trò của mình đối với giáo dục đại học Việt Nam".
Dưới góc nhìn của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, việc tuyển dụng, hợp tác giảng viên giỏi từ quốc tế và giảng viên người Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, đến tham gia giảng dạy và nghiên cứu tại các trường đại học ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với xu thế.
Song, với tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong giai đoạn hiện nay, các trường đại học Việt Nam nên ưu tiên tuyển dụng những giảng viên phục vụ cho các chương trình đào tạo thuộc lĩnh vực STEM, lĩnh vực đang được quan tâm thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay và trong những năm tiếp theo.
Để đem lại hiệu quả cho công việc này, mỗi giảng viên nước ngoài được tuyển dụng đều phải có khả năng và đáp ứng yêu cầu giảng dạy, hướng dẫn người học ở các chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ; khả năng nghiên cứu khoa học và hợp tác trong nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, khi tuyển dụng, các trường đại học Việt Nam cần có những yêu cầu cụ thể về thời gian làm việc, sinh sống tại Việt Nam, khối lượng giảng dạy và hướng dẫn người học theo từng trình độ đào tạo; khối lượng nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.
Giảng viên quốc tế không thay thế mà bổ sung cho đội ngũ Việt Nam
Phân tích rõ hơn hơn về tỷ lệ giảng viên người nước ngoài tham gia chương trình đào tạo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu cho rằng, tỷ lệ giảng viên nước ngoài cần được xây dựng theo cách hướng đến chuẩn quốc tế nhưng vẫn duy trì sự gắn kết với bối cảnh, điều kiện thực tế của Việt Nam. Tỷ lệ hợp lý nằm trong khoảng:
Thấp hơn 30% đối với các ngành truyền thống có đội ngũ trong nước đủ mạnh (khoa học cơ bản, công nghệ thông tin).
Xấp xỉ 50% đối với các ngành mới nổi, cần kinh nghiệm quốc tế và nhân lực Việt Nam chưa đáp ứng như bán dẫn, AI, dữ liệu, robot, năng lượng mới, hạt nhân.
Trên 70% chỉ phù hợp với những chương trình đặc biệt, ví dụ như chương trình liên kết chuẩn top 200, hoặc khi Việt Nam chưa có đội ngũ nghiên cứu nền tảng.
Thầy Hiếu nhấn mạnh: "Điều quan trọng là giảng viên quốc tế không thay thế mà bổ sung và nâng chuẩn cho đội ngũ Việt Nam. Bởi vậy, nên áp dụng mô hình đồng giảng (co-teaching) và phân tầng nhiệm vụ để thật sự phát huy năng lực của đội ngũ này.
Với mô hình đồng giảng dạy (co-teaching) cần chia vai trò rõ ràng. Giảng viên nước ngoài đảm trách các học phần nền tảng nâng cao, học phần mũi nhọn, seminar nghiên cứu, phương pháp tư duy khoa học, mentoring dự án. Giảng viên Việt Nam đảm trách các học phần cơ sở, các phần gắn với bối cảnh Việt Nam, thực hành phòng thí nghiệm, quản lý sinh viên và hỗ trợ học thuật dài hạn. Mô hình này vừa tạo chuẩn quốc tế, vừa đảm bảo sự liên tục, không gián đoạn trong đào tạo.
Trong mô hình phòng thí nghiệm liên kết (joint lab), giảng viên nước ngoài và trong nước cùng tham gia nhóm nghiên cứu như đồng hướng dẫn khóa luận; triển khai đề tài chung; xây dựng pipeline nghiên cứu cho sinh viên ngay từ năm nhất. Đây là mô hình giúp chuyển giao năng lực mạnh nhất.
Còn mô hình “short-course + long-term mentoring”, giảng viên quốc tế dạy các học phần ngắn hạn (2–4 tuần); giảng viên Việt Nam là mentor xuyên suốt cả học kỳ. 2 bên chia sẻ giáo trình, chuẩn đầu ra và đánh giá. Mô hình này đặc biệt phù hợp trong giai đoạn đầu khi số lượng giảng viên quốc tế còn hạn chế.
Mặt khác, để các giảng viên quốc tế sau khi về Việt Nam có thể nhanh chóng hòa nhập, phát huy năng lực chuyên môn, đồng thời truyền cảm hứng và kinh nghiệm nghiên cứu cho giảng viên, sinh viên trong nước, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu nhấn mạnh, điều quan trọng nhất là phải xây dựng cơ chế đón nhận chủ động, thay vì đưa họ vào hệ thống hiện hữu rồi tự thích nghi.
Về bố trí và sử dụng đội ngũ giảng viên quốc tế, theo Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) cần áp dụng mô hình phân tầng nhiệm vụ.
Trong đó, 20–30% làm nòng cốt trong các phòng thí nghiệm trọng điểm; làm trưởng nhóm nghiên cứu, xây dựng chương trình, phát triển nền tảng khoa học tại trường.
50–60% tham gia đồng giảng dạy và hướng dẫn lâu dài; hỗ trợ các khoa đào tạo truyền thống nâng chuẩn giảng dạy và nghiên cứu.
10–20% giảng dạy theo mô hình short-course chuyên sâu; phù hợp với các lĩnh vực đặc thù như AI, bán dẫn, năng lượng hạt nhân, nơi thiếu giảng viên đầu ngành.
Cùng bàn luận về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ chỉ ra: "Điều quan trọng là phân vai đúng, phối hợp đúng mô hình, và bảo đảm tính bền vững. Một chương trình tài năng tốt không chỉ dựa vào chuyên gia quốc tế, mà phải tạo được sự cộng hưởng giữa chuyên gia quốc tế và đội ngũ giảng viên Việt Nam để đào tạo ra lứa sinh viên thật sự khác biệt.
Giảng viên quốc tế chỉ thật sự tạo ra chuyển biến rõ nét khi họ được đặt đúng vị trí: dạy học phần then chốt, dẫn dắt nhóm nghiên cứu, đồng hành với giảng viên trẻ và sinh viên, và được hỗ trợ để hòa nhập nhanh vào môi trường học thuật Việt Nam. Khi cơ chế, vai trò, môi trường được thiết kế đúng, họ không chỉ mang lại chất lượng giảng dạy tốt hơn, mà còn “kéo” cả hệ sinh thái học thuật đi lên".

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: NVCC.
Chia sẻ thêm về chính sách nhằm thu hút đội ngũ giảng viên người nước ngoài, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng cho rằng: "Các trường đại học trong nước phải có các chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế từ nội dung, công tác quản lý chương trình và tổ chức đào tạo, đến trang thiết bị, cơ sở vật chất và các điều kiện hỗ trợ tập khác.
Cơ sở đào tạo còn phải xây dựng môi trường làm việc, học tập và nghiên cứu phù hợp thông lệ quốc tế để tạo thuận lợi cho giảng viên nước ngoài đến giảng dạy và nghiên cứu. Cùng với đó, chỗ ở, đi lại và thu nhập cho giảng viên nước ngoài cũng cần xem xét tính đến một cách hợp lý trong các quy chế của nhà trường".
Đi cùng với việc thu hút, giữ chân các tài năng Olympic ở lại Việt Nam học tập nhờ chương trình đào tạo chuyên sâu, đội ngũ giảng viên chất lượng cao, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng còn quan tâm đến việc thu hút nhóm học sinh này quay trở về đất nước cống hiến sau khi đi du học.
Thầy Hồng bày tỏ, đây là những người có năng lực, đã được đào tạo bài bản ở các quốc gia có nền giáo dục phát triển. Khi về nước cống hiến, họ sẽ là nguồn nhân lực chất lượng cao, trực tiếp tham gia vào hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại các trường đại học trong nước, thúc đẩy sự phát triển của giáo dục, khoa học và công nghệ nước nhà.
Vì vậy, việc khuyến khích, ưu tiên tuyển dụng nhóm nhân tài này, sau khi kết thúc việc học ở nước ngoài và có nguyện vọng quay trở về nước cống hiến là rất cần thiết đối với các trường đại học trong nước. Cơ sở giáo dục nên xây dựng môi trường làm việc và nghiên cứu khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế, từ đó tăng cường sức mạnh nội lực nhằm thu hút các giảng viên giỏi trên thế giới, và có cả những người xuất sắc trong nhóm học sinh này.
Với trường hợp những học sinh này vẫn tiếp tục sinh sống và làm việc ở nước sở tại hoặc quốc gia khác trên thế giới, thì họ vẫn là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam, đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước thông qua nhiều hình thức khác nhau.































