Chuyển đổi số nông thôn không chỉ là 'đưa công nghệ về làng'
Nông thôn là nơi sinh sống của phần lớn dân cư cả nước, giữ vai trò nền tảng của ổn định xã hội, an ninh lương thực và bản sắc văn hóa. Do vậy, chuyển đổi số ở khu vực này càng mang ý nghĩa đặc biệt; tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc đưa phần mềm, thiết bị về nông thôn mà không thay đổi mô hình vận hành thì chuyển đổi số chỉ mang tính hình thức.
Từ “ứng dụng công nghệ” sang “thay đổi mô hình phát triển”
Tại Hội thảo “Chính sách và mô hình chuyển đổi số nông thôn: Thực trạng và giải pháp” do Viện Sáng tạo và Chuyển đổi số, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) vừa tổ chức, ThS. Nguyễn Quyết Chiến, Tổng Thư ký VUSTA nhận định: chuyển đổi số là xu thế tất yếu, động lực cốt lõi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ông Chiến đặc biệt lưu ý, chuyển đổi số nông thôn không đơn thuần là đưa công nghệ về làng quê, mà là tái cấu trúc phương thức phát triển nông thôn: từ quản trị, sản xuất, phân phối đến cung ứng dịch vụ công và nâng cao chất lượng đời sống người dân.
“Trong bối cảnh Việt Nam theo đuổi các mục tiêu phát triển bền vững và cam kết thực hiện nguyên tắc “không để ai bị bỏ lại phía sau”, chuyển đổi số nông thôn không thể chỉ tập trung vào các mô hình trình diễn hay các địa phương có điều kiện thuận lợi, mà cần hướng tới một nghị trình chuyển đổi số bao trùm, lấy người dân làm trung tâm, lấy hiệu quả thực chất làm thước đo, coi việc thu hẹp khoảng cách số giữa nông thôn và thành thị là yêu cầu xuyên suốt”, Tổng Thư ký VUSTA Nguyễn Quyết Chiến nhấn mạnh.
Chia sẻ với ý kiến trên, TS. Nguyễn Thị Bích Lan, Viện trưởng Viện Sáng tạo và Chuyển đổi số cho rằng, chuyển đổi số nông thôn đang đứng trước ba dịch chuyển lớn. Đầu tiên là sự thay đổi từ tư duy “ứng dụng công nghệ” sang tư duy “chuyển đổi mô hình phát triển”, trong đó công nghệ chỉ là công cụ, trong khi cốt lõi là thay đổi cách tổ chức sản xuất, quản trị cộng đồng, cung cấp dịch vụ và kết nối thị trường. Nếu chỉ dừng lại ở việc đưa phần mềm, thiết bị về nông thôn mà không làm thay đổi mô hình vận hành, chuyển đổi số sẽ nhanh chóng rơi vào tính hình thức, gây lãng phí nguồn lực.
Tiếp đến là dịch chuyển từ các mô hình thí điểm đơn lẻ sang yêu cầu liên thông, tích hợp và nhân rộng. Thực tế thời gian qua, nhiều xã thông minh, xã thương mại điện tử đã hình thành nhưng còn rời rạc, chưa kết nối với hệ thống dữ liệu quốc gia và chuỗi giá trị số bền vững.
Cuối cùng là sự thay đổi cách tiếp cận từ “lấy chính quyền làm trung tâm” sang “lấy người dân và chủ thể kinh tế nông thôn làm trung tâm”. Chính người nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn phải là những người thụ hưởng giá trị thực từ công cuộc này. “Những dịch chuyển này đặt ra yêu cầu phải xem xét lại toàn bộ hệ thống chính sách và mô hình chuyển đổi số nông thôn hiện nay, cả về thiết kế lẫn cách thức triển khai”, bà Lan phát biểu.

Sử dụng thiết bị bay không người lái trong việc lập bản đồ, kiểm tra và theo dõi mùa vụ, phun thuốc bảo vệ thực vật, giám sát tưới tiêu và chăn thả gia súc. Ảnh: VGP
Dữ liệu chung - “huyết mạch” của nông thôn thông minh
Một trong những rào cản lớn nhất hiện nay là sự thiếu hụt và manh mún về dữ liệu. Theo Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ - Chính phủ số, Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ Đặng Tùng Anh, dữ liệu chính là tài sản tạo ra giá trị mới cho nông nghiệp. “Dữ liệu rất quan trọng trong chuyển đổi số, bởi dữ liệu càng dùng càng tạo ra giá trị. Đơn cử như trong sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI), nếu có nhiều dữ liệu phục vụ cho AI thì càng tạo ra nhiều giá trị mới”, ông nói.
Bên cạnh đó, ông Đặng Tùng Anh cũng lưu ý đến cách tiếp cận trong chuyển đổi số khu vực nông thôn; bà con nông dân không quan tâm quá nhiều đến lý thuyết chuyển đổi số mà quan tâm tới các cách thức giúp tăng năng suất và tạo ra những giá trị cụ thể cho sản phẩm họ làm ra. Đây chính là nội dung mà chuyển đổi số cần gắn chặt để tiếp cận với người dân.
Hiện, trên thế giới đã có các mô hình “làng thông minh”. Chẳng hạn, tại Trung Quốc có “làng Taobao” bán hàng online tạo doanh thu lớn, có những công ty về nông nghiệp điều khiển hệ thống tưới tiêu tự động trong phòng làm việc thay vì người nông dân trực tiếp thao tác trên đồng ruộng.
Dù vậy, ông Tùng Anh cho biết, không có một hình mẫu hoàn chỉnh, mà sẽ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa của mỗi nơi. Tựu trung, mô hình “làng thông minh” được đề xuất như một giải pháp trọng tâm, dựa trên ba trụ cột: thiết chế, con người và công nghệ. Tại đây, các sáng kiến số được xây dựng dựa trên đặc thù địa phương, sử dụng tài nguyên số để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Đây chính là tiền đề quan trọng để xây dựng xã nông thôn mới 4.0.
Để chuyển đổi số nông nghiệp và nông thôn theo hướng xanh và bền vững, ông Tùng Anh lưu ý, khi thay đổi cách tiếp cận sẽ có cách làm mới. Đối với chính quyền, toàn bộ hoạt động cần thực hiện trên môi trường số. Về phía người dân, họ quan tâm đến y tế, giáo dục, đặc biệt là kinh tế; nếu có giải pháp dễ sử dụng, chi phí thấp sẽ rất tốt cho người dân.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của dữ liệu số trong chuyển đổi số nông nghiệp và nông thôn, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Sáng tạo và Chuyển đổi số Trần Hồng Quỳnh đề xuất, khai thác dữ liệu số cần được xác định là trụ cột nền tảng, mang tính dài hạn, gắn với đổi mới phương thức quản lý, tổ chức sản xuất và cung cấp dịch vụ công ở khu vực nông thôn. Dữ liệu phải được xem là tài sản công đặc biệt, cần được chuẩn hóa, liên thông, chia sẻ có kiểm soát giữa các ngành, các cấp; đồng thời từng bước mở dữ liệu phù hợp để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hình thành các dịch vụ số phục vụ sản xuất nông nghiệp, quản lý nông thôn và phát triển kinh tế nông thôn bền vững.
































