Chuyển đổi số mạnh mẽ cho ngành Tòa án theo tinh thần Nghị quyết 66

Ngành Tòa án được kỳ vọng như một lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ cho hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng.

Mới đây, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW (gọi tắt là Nghị quyết 66) về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Một trong bảy nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược mà Đảng và Nhà nước hướng đến là nhiệm vụ thứ sáu: “Tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật”.

Kỳ vọng ngành Tòa án đi tiên phong

Không thể phủ nhận rằng, sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới gắn với “kỷ nguyên số” - một thời đại mà các hoạt động được triển khai thực hiện dựa trên nền tảng công nghệ.

Ngành Tòa án cũng không nằm ngoài ngoại lệ ấy mà còn được kỳ vọng như một lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ cho hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng.

 TAND TP.HCM và Trung tâm Phát triển khoa học và công nghệ trẻ (thuộc Thành đoàn TP.HCM) ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác chuyển đổi số. Ảnh minh họa: HỮU ĐĂNG

TAND TP.HCM và Trung tâm Phát triển khoa học và công nghệ trẻ (thuộc Thành đoàn TP.HCM) ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác chuyển đổi số. Ảnh minh họa: HỮU ĐĂNG

Thực tế, vấn đề về vận dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động tư pháp không phải được Đảng và Nhà nước cụ thể hóa lần đầu tiên trong Nghị quyết số 66.

Trước khi ban hành Nghị quyết 66, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII, về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã đưa ra các định hướng cải cách tư pháp, đặc biệt trong đó là định hướng chiến lược để tích hợp AI vào hệ thống xét xử của tòa án.

Mục tiêu của định hướng này là nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và hiện đại hóa hệ thống tư pháp, đồng thời vẫn đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

Tính đến nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực và kết quả khả quan.

Cụ thể, tại giai đoạn nộp đơn khởi kiện, người dân có thể nộp đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ và nhận các văn bản, thông báo tố tụng trực tuyến thông qua cổng dịch vụ công quốc gia.

Các quy trình tố tụng khác như quy trình tống đạt văn bản tố tụng, nộp án phí, nhận kết quả giải quyết được số hóa toàn diện, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và giảm áp lực hành chính.

Ghi nhận từ thực tiễn tại các địa phương cho thấy rằng người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, đánh giá cao các tiện ích được cung cấp qua nền tảng số, từ đó cho thấy bước đầu của một nền tư pháp thân thiện và dễ tiếp cận hơn.

Đối với việc hỗ trợ cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án trong công tác xét xử, phần mềm “Trợ lý ảo” đã được triển khai một cách hiệu quả và bước đầu thành công.

Phần mềm “Trợ lý ảo” được phát triển thông minh để cung cấp các tính năng nâng cao giúp thẩm phán và thư ký tòa án tự động hóa nhiều công việc như soạn thảo văn bản tố tụng, kiểm tra lỗi chính tả, mã hóa bản án và tra cứu văn bản pháp luật một cách nhanh chóng.

Điều này không chỉ giảm tải khối lượng công việc, giúp thẩm phán tập trung hơn vào việc xem xét nội dung vụ án mà còn hạn chế sai sót, đảm bảo tính chính xác trong hoạt động xét xử.

Đặc biệt, “Trợ lý ảo” còn có khả năng phân tích vụ án, tham chiếu án lệ và phát hiện lỗi logic trong các bản án, từ đó hỗ trợ thẩm phán đưa ra các quyết định công bằng hơn.

Song song đó, mô hình quản lý hồ sơ số, lưu trữ điện tử đang được đẩy mạnh triển khai. Hệ thống kho lưu trữ dữ liệu điện tử dùng chung giúp giảm chi phí vận hành, tối ưu không gian và tạo điều kiện truy xuất nhanh chóng cho người dân và cán bộ ngành.

Cùng với việc sử dụng chữ ký số, công khai bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử, ngành Tòa án đang hiện thực hóa mục tiêu minh bạch hóa tư pháp.

Đặc biệt, TAND Tối cao đang xây dựng cơ sở dữ liệu liên ngành, kết nối với VKSND, Cơ quan thi hành án dân sự, hệ thống quản lý cư trú…, hướng tới một hệ sinh thái tư pháp số toàn diện và đồng bộ.

 Một phiên tòa được xét xử theo hình thức trực tuyến tại Tây Ninh. Ảnh: Huỳnh Du

Một phiên tòa được xét xử theo hình thức trực tuyến tại Tây Ninh. Ảnh: Huỳnh Du

4 nhóm giải pháp cho ngành Tòa án

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn hệ thống Tòa án vẫn gặp phải nhiều trở ngại giữa các cấp tòa án, địa phương với nhau. Nền tảng hạ tầng số vẫn còn đang đầu tư nhiều hơn nữa trong tương lai. Đồng thời, trong bối cảnh nhà nước vừa triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp, hệ thống tổ chức Tòa án cũng có sự điều chỉnh, đòi hỏi sự liên thông trong cơ sở dữ liệu.

 Thạc sĩ Lê Hoài Nam, Giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM

Thạc sĩ Lê Hoài Nam, Giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM

Chính vì thế, Nghị quyết 66 nhấn mạnh rất rõ ràng rằng để chuyển đổi số thành công hơn nữa trong hoạt động tư pháp Tòa án cần phải thực hiện 04 nhóm giải pháp sau:

Về mặt cơ sở hạ tầng: Cần ưu tiên nguồn lực xây dựng, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu lớn trước tiên. Trong chuyển đổi số, việc xây dựng và phát triển hạ tầng số là tất yếu, nền tảng, bệ phóng và đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của chuyển đổi số.

Nhà nước cần tiếp tục ưu tiên bố trí ngân sách đầu tư, đảm bảo cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật cao, an toàn và bảo mật trong hoạt động Tòa án.

Về mặt chính sách pháp luật: Cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý hơn nữa để tiên phong, mở đường cho hoạt động tố tụng trong môi trường số, mạnh dạn xem xét các chế định mới liên quan đến việc vận dụng trí tuệ nhân tạo trong hoạt động xét xử.

Đồng thời, cần xây dựng khung pháp lý chặt chẽ quy định về phạm vi ứng dụng công nghệ thông tin, trách nhiệm của các bên liên quan và cơ chế kiểm soát để tránh các rủi ro pháp lý, bảo vệ quyền riêng tư và đảm bảo tính minh bạch trong xét xử.

Về mặt nhân sự: Cần đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ tư pháp, đặc biệt là những người trực tiếp tham gia xử lý và điều hành hệ thống. Việc đưa tiêu chí ứng dụng công nghệ vào đánh giá thi đua, xếp loại cán bộ cũng sẽ góp phần thúc đẩy tinh thần đổi mới và chủ động tiếp cận công nghệ.

Về mặt vận dụng nguồn lực xã hội: Cần tăng cường phối hợp giữa ngành Tòa án với các công ty, doanh nghiệp công nghệ.

Đảng và Nhà nước cũng thể hiện sự quan tâm rất lớn về sự phối hợp này khi nhấn mạnh rằng cần có chính sách thúc đẩy doanh nghiệp số phát triển theo Nghị quyết số 66.

Đây là cơ sở để thúc đẩy chuyển giao công nghệ, xây dựng các giải pháp số chuyên biệt phục vụ yêu cầu tư pháp. Một số mô hình hợp tác công – tư trong lĩnh vực cung cấp hạ tầng điện toán đám mây, phần mềm quản lý hồ sơ, giải pháp bảo mật dữ liệu đã cho thấy hiệu quả bước đầu và cần được tiếp tục nhân rộng.

Xu thế tất yếu của kỷ nguyên mới

Như Tổng Bí Thư Tô Lâm đã từng có bài viết chia sẻ nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024), khẳng định chuyển đổi số là động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Chuyển đổi số là yếu tố cốt lõi, là động lực chính thúc đẩy sự phát triển. Chúng ta cần phải thay đổi dần tư duy, cách thức tổ chức, văn hóa sử dụng công nghệ để thích ứng với kỷ nguyên này.

Chuyển đổi số trong ngành Tòa án là xu thế tất yếu, chứ không dừng lại ở câu chuyện của sự lựa chọn.

Nghị quyết số 66 như kim chỉ nam dẫn lối, định hình nên tư duy thích nghi với sự đổi mới trong vấn đề chuyển đổi số này.

Triển khai hiệu quả Nghị quyết 66-NQ/TW không chỉ là hiện thực hóa chủ trương của Đảng về hiện đại hóa nền hành chính tư pháp, mà còn là cam kết chính trị trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý, quyền được xét xử công bằng của công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Để đạt được điều đó, cần có sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt và bền bỉ từ Trung ương đến địa phương, từ thiết kế chính sách đến thực thi ở cơ sở.

Chỉ khi đó, ngành Tòa án mới thực sự chuyển mình thành một thiết chế tư pháp hiện đại, minh bạch, lấy người dân làm trung tâm và đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của một xã hội số đang vận động không ngừng.

ThS LÊ HOÀI NAM, Khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM

Nguồn PLO: https://plo.vn/chuyen-doi-so-manh-me-cho-nganh-toa-an-theo-tinh-than-nghi-quyet-66-post865342.html
Zalo