Chùa Hang - Tiên cảnh xứ chè
Quả thực, đến với chùa Hang, chúng tôi như được hòa mình vào một không gian tâm linh thiền tịnh vô cùng tĩnh tại; trong một quần thể kiến trúc cổ kính, trang nghiêm; giữa một miền trung du sơn thủy hữu tình; đẹp như chốn bồng lai. Và trong cái không gian ấy ta như thấy lòng mình trở nên thanh thản, nhẹ nhàng; bình yên hơn bao giờ hết.

Tác giả ở trước Tam quan chùa Hang (Kim Sơn Tự)
Chùa Hang là một danh thắng nổi tiếng trên đất Thái Nguyên, nay thuộc phường Linh Sơn; từng được Nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa, Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia (1999). Từ xưa, ngôi chùa này đã được nhiều danh sĩ trong nước truyền tụng và tìm đến ngắm cảnh, đề thơ. Sử sách và trên vách núi trong hang động Tiên Lữ hiện hãy còn lưu giữ không ít những thi phẩm của các nhà thơ nổi tiếng khi đương thời như Vũ Quỳnh, Đặng Nghiệm (thời Lê Sơ); Chu Thần - Cao Bá Quát (thời vua Tự Đức, nhà Nguyễn)... Trong đó nổi tiếng nhất là bài thơ “Du Tiên Lữ động văn nhân đàm Thái Nguyên sơn thủy chi thắng, túy hậu thành ngâm” (Chơi động Tiên Lữ nghe nói về cảnh non nước Thái Nguyên, say rồi làm) của thi sĩ Cao Bá Quát: “Ông xanh sao khéo vẽ vời/ Thái Nguyên núi ấy bày chơi làm gì?/ Bằng nắm tay hòn núi kia/ Rìu thần, búa quỷ ly kỳ chuốt trau/ Mở toang cái động ngàn thâu/ Ngoằn ngoèo thạch nhũ muôn màu lạ sao/ Hút heo bậc đá bước vào/ Đường đi như lối cheo leo lên trời/ Mây già đá quái chơi vơi/ Gồ ghề ngạo nghễ, đố ai dám trèo/ Chỉ còn vượn hót chim kêu/ Ríu ran đàn lũ gọi nhau đi về/ Cửa thiền sừng sững đây kia/ Ấy ai từ bước bồ đề phát tâm?/ Mà nay trong động u thâm/ Vàng cài, biếc giắt mười phân ưa nhìn/ Đây nhiều chướng khí lam yên/ Lại thêm mưa gió ghét ghen phũ phàng/ Danh sơn chơi khắp khôn màng/ Vừa nâng chén rượu ý tràn ngập say/ Hoắc Sơn, Ba Bể mờ mây/ Muốn đi, phải nỗi đường này khó đi/ Ước ao quả động to kia/ Có ai chịu khó khênh về cho ta/ Để bày những chỗ lại qua/ Hồ Tây, Phượng Chủy cùng là Châu Long” (Bản dịch thơ của Hoa Bằng). Cứ thế “Tiếng lành đồn xa”, chùa Hang - động Tiên Lữ cùng với cảnh sắc non nước hữu tình tựa chốn bồng lai qua những vần thơ phóng khoáng và thẫm đẫm phong vị lãng mạn của Thánh Quát mà thỏa sức lan tỏa trong thiên hạ để tao nhân mặc khách đến rồi thì gật gù tán thưởng, chưa đi thì không khỏi xốn xang, ao ước.

Du khách ở trước Chính Điện Tam Bảo
Thế đấy, danh lam thắng cảnh Thái Nguyên này quả là không phải bây giờ mới nổi tiếng. Tìm trong huyền thoại và sử sách lưu truyền, người ta thấy miền đất phật xứ chè ở bên dòng sông Cầu, từng hiện về trong giấc mộng của vua Lý Thánh Tông. Đó là một buổi sáng mùa xuân năm Nhâm Tuất, nhà vua ngủ mơ, được đức phật mặc áo vàng dắt tay đưa lên Đồng Hỷ. Tỉnh dậy, vua Lý liền kể cho Nguyên Phi Ỷ Lan nghe. Ngay lập tức, hôm sau, Hoàng Hậu đi lên Thái Nguyên kinh lí. Khi đến Đồng Hỷ, vãng cảnh Động Linh Sơn, Nguyên Phi Ỷ Lan trông thấy ba ngọn núi Thanh Long, Huyền Vũ, Bạch Hổ cùng hệ thống hang động, sông suối uốn lượn hữu tình và rất hợp phong thủy bèn cho lấy hang trong núi Huyền Vũ làm chùa để thờ phật và gọi tên là Kim Sơn Tự (chùa núi vàng). Tên chùa là thế nhưng do chùa ở trong hang động nên dân gian quen gọi là chùa Hang. Không rõ thủa ban đầu chùa Hang như thế nào nhưng bây giờ vào chùa trong hang chúng tôi thấy ở hai bên cửa động có hai ông hộ pháp rất uy nghiêm. Ông Khuyến Thiện cưỡi voi, ông Trừng Ác cưỡi hổ. Ở giữa, sát vách núi, trên tòa sen là pho tượng A di đà mặc áo cà sa, hai tay xếp bằng kết ấn thiền định. Phía trước phật A di đà có Phật tổ, đầu đội lá sen. Ngoài ra, trên các ban thờ còn có nhiều pho tượng khác. Đặc biệt, trong hang có muôn vàn nhũ đá buông xuống nhìn rất đẹp. Có nhũ đồ sộ, trông như cột trụ trời phải mấy người ôm mới kín, có nhũ giống hình voi phục, hình hổ chầu, hình rồng bay, hình lân múa, hình sinh thực khí, … Không những thế, trong hang có nhiều lối nhỏ, ngóc ngách. Men theo những ngóc ngách ấy trí tưởng tượng dân gian đã thỏa sức sáng tạo. Người ta gọi những ngách thông lên trời là “đường lên trời”, ngách đi sâu vào trong lòng núi gọi là “lối xuống âm phủ”… Và như vậy, từ xưa, cái vẻ đẹp của non nước ở chùa Hang đã không chỉ khơi gợi cảm hứng cho thi phú mà còn được ghi chép đầy đủ trong sử sách. Giở lại những bộ sử thời trước, tôi thấy “Đại Nam thống nhất chí” của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn có ghi khó rõ về danh thắng này: “ở cách huyện Động Hỷ 20 dặm về phía Tây, trong núi có động, trong động có cột đá; phía trước, phía sau đều có cửa, người ta nhân động làm chùa. Về phía Nam núi có sông Đồng Mỗ vòng quanh, cũng là nơi thắng cảnh”, “núi Long Tuyền, ở huyện Động Hỷ, rộng rãi, có thể chứa được hơn 300 người. Trong núi có đền thờ phật Thích Ca và các vị phật tổ. Phía đông có một cái lỗ, nước chảy ra thành ao, có rất nhiều cá. Người ta đốt đuốc du ngoạn, nếu trong lòng thành kính thì được tùy ý ngao du, nếu trái lại thì gió thổi lửa tắt không biết lối về”.

Du khách ở trổng cổng Tiên cảnh chùa Hang
Vãng cảnh chùa Hang, đi vào trong động, nét xưa dường như vẫn còn đó nhưng người ta sẽ thấy chùa không giống xưa nữa. Kiến trúc và quy mô của chùa hiện nay lớn hơn; nhiều công trình được thiết kế bề thế và đẹp đẽ hơn. Thời xưa, do trong núi có động “chứa được hơn ba trăm người” mà người ta đã “nhân động làm chùa”. Ngày nay đến với chùa Hang, ngoài ngôi chùa cổ vẫn còn trong động, người ta thấy ở phía ngoài, Kim Sơn Tự được tọa trên một không gian rất rộng, khoảng hơn 8 hét ta với rất nhiều các hạng mục công trình, xứng tầm là một trung tâm phật giáo của xứ chè. Đi từ ngoài vào trong, chúng tôi nhìn thấy Kim Sơn Tự có: Tam quan ở phía bên ngoài, Lầu chuông (nằm bên phải, treo quả chuông đồng to và đẹp), Lầu trống (nằm bên trái, có treo một chiếc trống to, đường kính khoảng 1,5 mét), Chính điện Tam Bảo, Nhà thờ Tổ, Bảo tháp, Tiên Lữ Điện, Khu vườn Tiên Cảnh, Miếu sơn thần (dưới chân núi, bên suối Long Tuyền, lối đi sang chùa cổ)… Kiến trúc của những công trình ở chùa Hang đều được làm theo truyền thống, theo lối cổ. Tam quan chùa bề thế, hai tầng tám mái; trụ cột, khung cửa đều làm bằng gỗ lim chắc chắn; mái lợp ngói mũi hài, các đầu đao uốn cong duyên dáng. Chính điện Tam Bảo có năm gian to, rộng; kiến trúc hình chữ Công; gian ngoài có hai tầng tám mái, lợp ngói ta, đầu đao cong cong cách điệu. Ở chính giữa nóc nhà Chính điện có trang trí biểu tượng bánh xe luân hồi của nhà phật. Tổ đường ở phía sau tòa Chính điện có năm gian hai chái làm theo hình chữ Đinh; Tiên Lữ điện ở phía sau Tổ đượng, phía bên phải, dưới chân núi, có ba gian hai chái. Cả hai công trình Tổ đường và Tiên Lữ điện đều được lợp ngói ta, các góc có đầu đao cong rất đẹp. Trên sân chùa, trước tòa Chính điện, ở gian giữa, có một pho tượng Thích Ca Mâu Ni cao gần 3 mét, ngồi trên tòa sen, bằng đá ngọc thạch màu xanh đen nguyên khối rất đẹp. Trong tòa Chính điện, có ban Tam thế phật ở trên cùng và cung Cửu Long; tiếp theo là ban tượng Phật Như Lai thời thơ ấu. Nội thất tòa thượng điện bài trí trang nghiêm; các cung, các ban, các bức hoàng phi đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Bên phải Chính điện đặt tượng Phật Bồ Tát thiên thủ thiên nhãn cứu độ chúng sinh; bên trái Chính điện thờ Dược sư Lưu Ly là biểu trưng công đức và phúc đức siêu việt; phía ngoài cùng điện thờ là tượng Đức Thánh Hiền và Đức Ông.

Đường vào hang động trên núi
Đi qua một ngàn năm lịch sử, khu di tích Chùa Hang bây giờ rất đẹp. Nhưng đẹp và trữ tình hơn cả, có lẽ là những huyền thoại kể về sự tích các nàng tiên thường lui đến vui chơi ở chốn này để ngày nay xứ chè có Tiên Lữ động có một không hai, hữu tình lai láng. Truyện truyền lại rằng, ngày xưa có bảy nàng tiên trên trời thường xuống những ngọn núi ở Đồng Hỷ, bên sông Cầu để đánh cờ, dạo chơi hang động, vui múa hát ca ... Trong số các vị tiến ấy có nàng tiên thứ Bảy vì mến cảnh yêu người xứ nơi này mà thường xuyên giấu Ngọc Hoàng trốn xuống hạ giới để ngao du ngắm động, tắm mát ở trên giếng Mắt Rồng (ở núi Huyền Vũ có động Tiên Lữ, trong động có suối Long Tuyền, suối chảy về hướng Tây Nam, mạch suối chảy ngầm rồi bất ngờ trào nước lên thành một cái giếng trong vắt, giếng này được mọi người gọi là giếng Mắt Rồng). Tại đây, nàng tiên đã gặp người tiều phu, rồi nên duyên và phạm vào luật cấm ở trên tiên giới. Vua cha Ngọc Hoàng tức giận; đày nàng vào trong hang và cấm không cho quay lại thiên đình. Bởi vậy, sau này, người đời mới gọi hang tiên ở ấy là Tiên Lữ động. Cũng từ huyền thoại ấy mà người dân nơi đây đã sáng tạo những vần thơ lục bát để truyền kể cho nhau nghe về sự kỳ diệu của thiên nhiên xứ sở quê hương mình: “Chùa Hang cảnh sắc đẹp thay/… Ngày xưa tiên xuống đây chơi/ Yêu người mến cảnh đường mây quên về/ Ngọc Hoàng nổi giận, chiếu phê/ Đẩy vào hang vắng, cấm về thiên cung…”. Rồi, sau này cũng lại có một nhà thơ nào đó, mến cảnh nơi này, nhớ lại tích xưa mà viết: “Tôi về với những nàng tiên./ Đêm đêm hạ giới đi thuyền suối trăng./ Thiên thai ca múa dịu dàng./ Du dương tiếng sáo bay ngang sông Cầu./ Cánh tiên thấp thoáng hang sâu./ Rủ nhau tắm mát bên lầu Tuyền Long”. Có lẽ phong cảnh sơn thủy hữu tình cùng huyền thoại diễm lệ mà ai đấy đến chùa Hang nhưng cứ ngỡ như được thấy cảnh tiên. Cho nên, vãng cảnh chùa Hang, ngắm nhìn những kỳ thú của tạo hóa, ngẫm những truyện xưa, trong tôi lại thấy hiện ra trước mắt cái chốn Thiên Thai huyền diệu, mơ màng của Thế Lữ, tựa như cái cảnh: “Tiên Nga xão tóc bên nguồn … Trời cao xanh ngắt – Ô kìa/ Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai/ Theo chim tiếng sáo lên khơi/ Lại theo giòng suối bên người Tiên Nga” (Tiếng sáo Thiên Thái) hay của Văn Cao “Thiên thai, ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian,/ Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần./ Gió hát trầm tiếng ca, tiếng phách dồn lắng xa,/ Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta./ Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn,/ Cùng bầy tiên đàn ca bao năm./ Nhớ quê chiều nào xa khơi,/ Chắc không đường về tiên nữ ơi.” (Thiên thai)…!

Chùa cổ trong hang
Quả thực, đến với chùa Hang, chúng tôi như được hòa mình vào một không gian tâm linh thiền tịnh vô cùng tĩnh tại; trong một quần thể kiến trúc cổ kính, trang nghiêm; giữa một miền trung du sơn thủy hữu tình; đẹp như chốn bồng lai. Và trong cái không gian ấy ta như thấy lòng mình trở nên thanh thản, nhẹ nhàng; bình yên hơn bao giờ hết. Vãng cảnh chùa Hang, nếu có thời gian, chúng ta phải du ngoạn núi non hang động vài ngày mới đủ thích. Nghe kể, hang động ở chùa Hang có nơi dài hun hút, thông sang tận đất Phú Lương. Bởi thế trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Hang từng là căn cứ của cách mạng, được sử dụng làm bệnh viện dã chiến … Đặc biệt, trong hang ấy, có nhiều chỗ người ta đã phát hiện được những dấu vết sinh sống của người tiền sử. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy trong hang những di vật khảo cổ thuộc giai đoạn sơ kỳ đá mới và xác định được nơi cư ngụ của cư dân thời đại kim khí. Đó là các công cụ dùng để chặt, mảnh tước, đá có vết ghè và mảnh gốm kim khí… Cho nên du ngoạn trong hang động ở chùa Hang, ta còn có cảm giác như được trở về với cội nguồn của con người. Du ngoạn như thế, nếu đi vào những ngày xuân, nhất là dịp hội chùa (từ ngày từ 19 đến 21 tháng Giêng hàng năm), du khách còn được hòa mình vào dòng người đi trẩy hội rất vui. Trong những ngày lễ hội ấy, chúng ta sẽ được trải nghiêm, chiêm bái các nghi lễ dâng hương, rước kiệu; cầu cúng các vị thần núi, thần sông, thần suối, tiên thần …; được xem rất nhiều trò chơi như bắn cung, đẩy gậy, ném còn, đi cầu kiều, tung vòng cổ vịt, chọi gà, đánh cờ … Và hội chùa Hang ấy cũng là một trong những lễ hội lớn nhất ở Thái Nguyên. Trong những ngày diễn ra hội chùa, các nhà sư và các tín đồ phật tử khắp thập phương về đây dâng hương cầu phật, cầu thần độ cho năm mới được mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, nhân khang vật thịnh, mùa màng bội thu … Có không ít người đắm mình trong lễ hội, cảnh tiên mà ngẩn ngơ đến quên lối về!
Ngang qua xứ chè, may mắn, chúng tôi được đắm mình với đất phật cảnh tiên trong thoáng chốc. Nhưng trời chiều ngả bóng cuộc vui cũng phải tạm dừng. Rồi cũng phải đến lúc chia tay với chùa Hang. Cứ thế, nhìn ánh hoàng hôn đang nhẹ nhàng phủ bóng dần dần xuống miền sơn cước; trên chiếc cầu bắc qua con suối xinh xinh, chợt thấy trong mình không khỏi nao nao, xúc cảm; để rồi lại ngầm hẹn trong lòng đầu mùa xuân mới ta lại về vãng cảnh, du xuân với non nước xứ chè.



























