Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu để phát triển đất nước bền vững
Biến đổi khí hậu (BĐKH) và thiên tai, bão lũ cùng hiện tượng bất thường của thời tiết đang diễn biến ngày càng phức tạp, tác động trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của người dân Việt Nam. Trước thực trạng đó, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã đề ra yêu cầu chiến lược: 'Chủ động triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp sẵn sàng ứng phó với các loại hình thiên tai.
Chú trọng đầu tư phát triển các công trình bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với BĐKH...”. Đây không chỉ là định hướng đúng đắn mà còn là sự khẳng định quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng ta trong chiến lược phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Có thể thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH toàn cầu. Hằng năm, nước ta phải hứng chịu hàng chục cơn bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, sạt lở đất, xâm nhập mặn... gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài sản và môi trường. Theo số liệu của Liên hợp quốc, thiệt hại do thiên tai gây ra tại Việt Nam mỗi năm ước tính tương đương 1-1,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Đặc biệt, tác động của BĐKH đang làm thay đổi cấu trúc hệ sinh thái, đe dọa an ninh nguồn nước, an ninh lương thực và đặt ra nhiều vấn đề an sinh xã hội phức tạp.

Lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân. Ảnh minh họa: nongnghiepmoitruong.vn
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách ứng phó với BĐKH. Hàng loạt chương trình, kế hoạch quốc gia về phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được ban hành. Hệ thống luật pháp liên quan đến công tác này ngày càng được hoàn thiện như: Luật Phòng, chống thiên tai (sửa đổi), Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước... Các cơ quan, lực lượng, nhất là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đã chủ động tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả, góp phần bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân, giảm thiệt hại do thiên tai gây ra.
Bên cạnh những kết quả trên, thực tế cho thấy, công tác ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKH ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Một số địa phương còn bị động, thiếu kế hoạch ứng phó dài hạn với BĐKH, thiên tai, bão lũ; đầu tư cho hạ tầng phòng, chống thiên tai chưa đồng bộ; năng lực dự báo, cảnh báo còn hạn chế. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về BĐKH chưa thật sâu sắc. Vì vậy, việc Đại hội XIV của Đảng tiếp tục đặt vấn đề này thành một nội dung trong dự thảo Báo cáo chính trị là hoàn toàn xác đáng và cần thiết, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với an ninh môi trường và sự phát triển bền vững quốc gia.
Để cụ thể hóa định hướng dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng, trước hết cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, thể chế hóa các chủ trương của Đảng về phòng, chống thiên tai và BĐKH thành hành động cụ thể. Cần xác định rõ các chỉ tiêu giảm phát thải, tăng khả năng chống chịu, phục hồi hệ sinh thái, bảo đảm an ninh năng lượng và an ninh nguồn nước; đồng thời, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; tăng cường phân cấp, phân quyền, gắn trách nhiệm người đứng đầu trong công tác phòng, chống thiên tai. Nhà nước cần huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này; đưa tiêu chí “an toàn trước thiên tai” trở thành một nội dung bắt buộc trong quy hoạch, đầu tư, phát triển kinh tế-xã hội. Mọi dự án phát triển hạ tầng, khu công nghiệp, đô thị, nông thôn mới đều phải tích hợp nội dung phòng, chống thiên tai và thích ứng với BĐKH ngay từ khâu quy hoạch, thiết kế đến thi công, vận hành.
Cùng với đó, cần chú trọng đầu tư phát triển các công trình phòng, chống thiên tai và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững, nhất là đối với nhóm công trình trọng điểm như hệ thống đê điều, hồ chứa, trạm bơm, công trình thoát nước, chống ngập ở các đô thị lớn và vùng ven biển. Đây là những “lá chắn” quan trọng trước bão lũ, triều cường và xâm nhập mặn. Đồng thời, quan tâm đầu tư xây dựng các công trình phục hồi, bảo tồn rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn, hệ sinh thái ven biển và các vùng đất ngập nước. Tiếp đó, cần đầu tư nâng cấp hệ thống quan trắc, cảnh báo sớm, bản đồ nguy cơ thiên tai dựa trên nền tảng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo. Việc ứng dụng khoa học-công nghệ không chỉ nâng cao khả năng dự báo mà còn giúp các cơ quan, lực lượng chủ động phương án ứng phó, giảm thiệt hại. Ngoài ra, cần khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo và các công trình xử lý chất thải, tái chế rác thải sinh hoạt, công nghiệp. Đây vừa là giải pháp bảo vệ môi trường, vừa tạo động lực cho nền kinh tế xanh, tuần hoàn, phát thải thấp.
Một điều đặc biệt quan trọng khác, là tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, hình thành “văn hóa an toàn trước thiên tai” trong cộng đồng. Các tổ chức chính trị, xã hội cần đẩy mạnh các phong trào: “Toàn dân tham gia phòng, chống thiên tai”, “Trồng cây gây rừng”, “Xanh hóa làng quê-sạch hóa môi trường sống”. Ở cấp cơ sở, mỗi gia đình, mỗi khu dân cư cần có kế hoạch, kỹ năng ứng phó, sơ tán, cứu hộ khi có thiên tai xảy ra. Cùng với đó, lực lượng vũ trang cần tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, xung kích trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai. Những năm qua, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ sát cánh cùng nhân dân trong lũ dữ, bão lớn trở thành biểu tượng đẹp của tinh thần vì dân phục vụ, vì dân quên mình. Từ những kết quả đạt được, cần tiếp tục đầu tư trang bị, phương tiện, huấn luyện nâng cao năng lực cứu hộ, cứu nạn, ứng phó thảm họa cho các đơn vị chuyên trách của Quân đội.
Song song với đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức, quốc gia có kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến trong dự báo, quản lý rủi ro thiên tai, chuyển giao công nghệ xanh, năng lượng sạch. Việt Nam cần chủ động tham gia các cơ chế khu vực và toàn cầu, thể hiện trách nhiệm quốc tế trong nỗ lực chung chống BĐKH.
Bên cạnh các nội dung trên, cần ưu tiên phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng và sử dụng hiệu quả tài nguyên. Cùng với đó, phát triển hạ tầng xanh, giao thông xanh, nông nghiệp thông minh để giảm phát thải. Ở các vùng biên giới, hải đảo, cần đầu tư xây dựng các công trình phòng, chống thiên tai, vừa bảo vệ dân sinh, đồng thời góp phần giữ gìn chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Chủ động ứng phó với thiên tai, thích ứng với BĐKH là yêu cầu khách quan, cấp bách, đồng thời là nhiệm vụ chiến lược gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Việc đưa nội dung này vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng thể hiện tầm nhìn sâu rộng, nhất quán của Đảng ta đối với vấn đề sống còn của quốc gia. Mong rằng, mỗi cấp, ngành, mỗi người dân cần nhận thức rõ trách nhiệm và hành động thiết thực hơn nữa, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ an toàn môi trường sinh thái, thích ứng hiệu quả với BĐKH, phát triển đất nước bền vững trong kỷ nguyên mới.





























