Chọn kịch bản cho tăng trưởng GDP 2 con số
Với mục tiêu trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước thu nhập cao vào năm 2045, GDP bình quân đầu người được kỳ vọng đạt 7.500 USD vào năm 2030 và 13.000-15.000 USD vào năm 2045.

Chọn “tăng tốc nhanh” hay “sóng bền vững”
Như vậy năm 2025 tăng trưởng phải đạt 8% trở lên, các năm sau ở mức hai con số. Theo GS.TS Phạm Hồng Chương, Giám đốc Đại học Kinh tế quốc dân (NEU), việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước.
Nhưng GS.TS Chương cũng lưu ý, để đạt được các mục tiêu cao như thế trong bối cảnh thế giới đầy bất ổn, chính sách của Mỹ thất thường, cùng với sự trỗi dậy và thay đổi nhanh chóng của công nghệ, thì đây là bài toán vô cùng khó trước nay Việt Nam chưa từng gặp phải.
Cơ hội lớn tuy có nhiều, nhưng thách thức rất lớn đòi hỏi Việt Nam phải có các chiến lược phát triển linh hoạt, hiệu quả và đột phá. Tốc độ tăng cao có thể đạt được nếu như có những giải pháp tốt.

Dù đặt mục tiêu cao, nhưng lựa chọn con đường hiện thực hóa mục tiêu phù hợp là vấn đề cần tính toán kỹ trong bối cảnh đất nước còn nhiều thách thức về thể chế, nguồn lực, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, khoa học-công nghệ.
GS.TS Trần Thị Vân Hoa và nhóm nghiên cứu của NEU, đã đưa ra 3 kịch bản phát triển của Việt Nam. Mỗi kịch bản đều chia làm 3 giai đoạn phát triển:
Kịch bản A “khởi động nhanh” với 3 giai đoạn tăng trưởng: Giai đoạn 2025-2029, GDP đạt 11%/năm; giai đoạn 2030-2037 với GDP 9%/năm; giai đoạn 2038-2045 với GDP 7-8%/năm. Ưu điểm của kịch bản này là tận dụng động lực ban đầu, thời gian dài điều chỉnh. Nhưng áp lực năm năm đầu vô cùng lớn và dẫn đến rất dễ kiệt sức.
Kịch bản B “tăng tốc tăng trưởng trong nhiều năm”: Giai đoạn 2025-2031 với GDP 11%/năm; giai đoạn 2032-2038 với GDP đạt 8,5-9%/năm; Giai đoạn 2039-2045, GDP đạt 6,5-7,5%/năm. Ưu điểm ở kịch bản này là có thời gian chuẩn bị dài nên áp lực phân bổ đều. Nhưng rủi ro là khó duy trì động lực tăng trưởng cao trong thời gian dài, khi mà chưa có sự chuẩn bị kỹ.
Kịch bản C “sóng tăng trưởng”, tức không tạo ra ngay một áp lực lớn từ đầu mà tăng từ từ, và cũng giảm từ từ theo sóng. Giai đoạn 2025-2035 với 2 phân kỳ: phân kỳ chuẩn bị 2025-2030 với GDP 8-10%/năm; phân kỳ tăng tốc 2031-2035 với GDP 11-12%/năm; Giai đoạn 2036-2040, GDP ở mức 8,5-9%/năm; Giai đoạn 2041-2045, GDP đạt 6,5-7,5%/năm.
Theo PGS.TS Trần Thị Vân Hoa, kịch bản C có khoảng thời gian cho phép cải cách thể chế toàn diện, nâng cấp công nghệ và phát triển vốn nhân lực cần thiết, tránh được sự mất cân đối và chuyển đổi mô hình tăng trưởng vững chắc. Việc chia thành 3 giai đoạn với các phương án dự phòng cụ thể giúp Việt Nam chủ động điều chỉnh chiến lược, đảm bảo đạt mục tiêu cuối cùng trong khi giảm thiểu rủi ro từ các cú sốc bất ngờ và thách thức.
Để tăng trưởng 2 con số, theo các chuyên gia cần 3 nhóm giải pháp quan trọng:
Nhóm giải pháp chính trị-hành chính, bao gồm: thực thi triệt để "cuộc cách mạng thể chế"; nâng cao năng lực quản trị quốc gia…;
Nhóm giải pháp kinh tế - thương mại, thực hiện chiến lược thu hút FDI và tăng cường liên kết nội địa: Ưu tiên thu hút dự án công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ sạch; tạo hệ sinh thái thuận lợi cho doanh nghiệp công nghệ và công nghiệp chiến lược.
Nhóm giải pháp phát triển không gian kinh tế mới, quy hoạch và đầu tư hạ tầng chiến lược: Ưu tiên hoàn thiện mạng lưới đường cao tốc, đường vành đai, giao thông liên vùng đa phương thức, đường sắt tốc độ cao. Phát triển vùng động lực và hành lang kinh tế: Phát triển đô thị thông minh bền vững.
Nhưng làm sao để tăng trưởng cao
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhấn mạnh, đây là mục tiêu rất khó, song đó chính là sự khác biệt và là bản sắc riêng có của Việt Nam. Và để tăng trưởng cao, trước hết vẫn phải bảo đảm ổn định vĩ mô, tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, tăng khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Bài học của giai đoạn 2007-2008 về thúc đẩy tăng trưởng thông qua mở rộng tín dụng, đã để lại nhiều hậu quả cần khắc phục trong thời gian dài, đặc biệt là lạm phát cao, suy giảm tăng trưởng và mất an toàn hệ thống tài chính.
Cũng theo PGS.TS Sơn, mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là một thách thức lớn, nhưng cũng là cơ hội vàng để Việt Nam vươn tầm. Do vậy cần những cải cách mạnh mẽ, những đột phá trong tư duy và hành động. Tăng trưởng cao chỉ có thể bền vững khi dựa trên cải thiện chất lượng tăng trưởng, tăng năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Năng suất lao động tuy có tăng khá nhanh nhưng chỉ đạt khoảng 5,1% - thấp hơn mục tiêu, thấp hơn mức tăng của các nước tăng trưởng cao 2 con số trong cùng thời kỳ.
Tăng trưởng cao cần nguồn lực rất lớn, và phải thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trên GDP. Đồng thời có các cơ chế, chính sách để tạo động lực cho kinh tế tư nhân, phát triển mạnh các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp thông minh với nền tảng là doanh nghiệp dân tộc.
Theo Ngân hàng Thế giới, để đạt mức thu nhập cao vào năm 2045, giai đoạn 2026-2030 cần vốn đầu tư trên GDP ở mức 36%. Kinh nghiệm từ các nước Đông Á có mức tăng trưởng 2 con số trong thời gian dài và vượt bẫy thu nhập trung bình, cho thấy cần có sự đột phá về phát triển công nghiệp.
Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, chọn kịch bản nào, chọn con đường nào để hoàn thiện thực hóa mục tiêu, thì chúng ta cần một sự đồng thuận lớn trong toàn xã hội, một tầm nhìn chiến lược dài hạn, quyết tâm rất lớn và những giải pháp cụ thể, khả thi.