Chính sách mới là đòn bẩy để thúc đẩy y tế số quốc gia
Chuyển đổi số y tế đang tăng tốc tại Việt Nam, trở thành 1 trụ cột quan trọng của chiến lược phát triển quốc gia. Mục tiêu cuối cùng là hình thành 1 hệ sinh thái y tế số để người dân được chăm sóc sức khỏe suốt đời dựa trên dữ liệu chính xác, an toàn
Hoàn thiện thể chế cho y tế số
Nghị quyết 57-NQ/TW là một bước ngoặt quan trọng khi lần đầu tiên Việt Nam đặt ra yêu cầu phát triển hạ tầng số như một loại hạ tầng thiết yếu ngang hàng với điện, đường, trường, trạm. Theo đó, hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc.
Nghị quyết này cũng đưa ra định hướng phát triển các nền tảng số an toàn và tăng cường ứng dụng công nghệ số, hình thành công dân số. Phát triển một số mạng xã hội Việt Nam, xây dựng xã hội số an toàn, lành mạnh. Xây dựng nền tảng số nhằm giám sát, thu thập dữ liệu lĩnh vực tài nguyên, môi trường.
Bên cạnh đó, phải đảo đảm an toàn, an ninh mạng và chủ quyền quốc gia trên nền tảng số và không gian mạng; an ninh, an toàn dữ liệu hợp pháp của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và chủ quyền an ninh dữ liệu quốc gia.
Điều này mở cơ sở cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu y tế quốc gia và hồ sơ sức khỏe số phục vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại và kết nối, bảo vệ dữ liệu của bệnh nhân trên môi trường số.
Cùng với Nghị quyết 57, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân không chỉ mang ý nghĩa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung, mà còn tạo ra một bước ngoặt mang tính cấu trúc đối với lĩnh vực y tế - một lĩnh vực vốn lâu nay được nhìn nhận chủ yếu như dịch vụ công, phụ thuộc nặng vào ngân sách nhà nước. Dưới góc nhìn chính sách, Nghị quyết 68 đã mở ra không gian mới để y tế tư nhân bước ra khỏi vai trò “bổ trợ”, trở thành một cấu phần chính thức, quan trọng của hệ thống y tế quốc gia.
Một trong những tác động sâu sắc nhất của Nghị quyết 68 đối với y tế là tái định vị vai trò của khu vực tư nhân. Trong mô hình mới, bệnh viện tư nhân, phòng khám tư, doanh nghiệp dược - thiết bị y tế hay các công ty healthtech không còn đứng bên lề hệ thống, mà được nhìn nhận là đối tác chiến lược của Nhà nước trong việc mở rộng năng lực cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Nghị quyết 68 nhấn mạnh: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.”
Nghị quyết 68 không đứng độc lập, mà có sự cộng hưởng mạnh mẽ với Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số. Với y tế, điểm giao thoa lớn nhất nằm ở y tế số và healthtech. Khi kinh tế tư nhân được xác định là động lực đổi mới, các doanh nghiệp công nghệ y tế có cơ sở chính sách rõ ràng hơn để phát triển các nền tảng khám chữa bệnh từ xa, hồ sơ sức khỏe điện tử, AI hỗ trợ chẩn đoán hay phân tích dữ liệu y tế.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới quản trị sức khỏe dựa trên dữ liệu, thay vì chỉ quản lý hoạt động của từng bệnh viện. Y tế tư nhân, với sự linh hoạt và khả năng đổi mới nhanh, có thể đóng vai trò tiên phong trong việc thử nghiệm và triển khai các mô hình y tế số mới, từ đó lan tỏa sang toàn hệ thống.
Nghị quyết 72-NQ/TW không bàn về y tế theo nghĩa kỹ thuật, nhưng đặt y tế vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển con người, coi chăm sóc và bảo vệ sức khỏe là điều kiện nền tảng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững đất nước.
Nghị quyết 72-NQ/TW là nghị quyết của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá để tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, trong đó có rất nhiều nội dung định hướng y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế… Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân với những mục tiêu phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, vừa được ban hành như một luồng gió mới, mang theo sức sống mãnh liệt cho ngành y tế nói chung và cộng đồng y tế tư nhân nói riêng.
Những nghị quyết trên đã tạo ra không gian chính sách toàn diện. Đây là lần đầu tiên ngành y tế Việt Nam có một cấu trúc chính sách đồng bộ, liên thông và đủ mạnh để tạo ra sự chuyển dịch toàn hệ thống.
Hệ sinh thái y tế số: Từ dữ liệu đến thực tiễn chăm sóc sức khỏe
Trên thế giới, các quốc gia như Estonia, Hàn Quốc, Israel đã chứng minh rằng EHR là nền tảng quan trọng của y tế hiện đại. Estonia quản lý toàn bộ hồ sơ sức khỏe công dân thông qua ID số và đạt tỷ lệ 99% hồ sơ được truy cập trực tuyến bởi bác sĩ. Việt Nam đang đi theo mô hình tương tự, hướng đến mục tiêu 100% người dân có hồ sơ sức khỏe điện tử hoàn chỉnh, liên thông với hệ thống bảo hiểm và cơ sở dữ liệu dân cư. Khi hoàn thiện, EHR cho phép bác sĩ truy cập lịch sử bệnh của bệnh nhân ngay lập tức, giảm tình trạng trùng lặp xét nghiệm, tăng độ chính xác trong chẩn đoán và giảm chi phí y tế.
Tuyến y tế cơ sở đóng vai trò quan trọng trong quá trình này. Với hơn 11.000 trạm y tế xã, tuyến cơ sở là "xương sống" của hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Tuy nhiên, trong nhiều năm, tuyến y tế cơ sở gặp nhiều khó khăn về công nghệ, thiếu dữ liệu và quy trình quản lý chưa chuẩn hóa. Việc số hóa trạm y tế xã sẽ giúp dữ liệu sức khỏe của người dân được cập nhật từ gốc, tạo điều kiện để hình thành hệ thống giám sát sức khỏe cộng đồng theo thời gian thực. Với dữ liệu đầy đủ và chuẩn hóa, Việt Nam có thể phát hiện sớm dịch bệnh, dự đoán xu hướng lây lan và đưa ra khuyến nghị y tế dựa trên phân tích thuật toán, giúp phòng chống dịch hiệu quả hơn.
Các cơ sở dữ liệu chuyên ngành như Cơ sở dữ liệu Dược quốc gia, cơ sở dữ liệu trang thiết bị y tế, cơ sở dữ liệu xét nghiệm cũng đóng vai trò quan trọng trong tăng cường minh bạch và quản trị thị trường y tế. Việc công khai giá thuốc, theo dõi đường đi của dược phẩm, chuẩn hóa mã số trang thiết bị giúp giảm tình trạng nâng giá, buôn bán thuốc giả và tối ưu ngân sách công. Hệ thống quản lý dược quốc gia của Hàn Quốc (KPIS) đã giảm 13% tình trạng kê đơn không hợp lý chỉ sau 2 năm triển khai; Việt Nam có cơ hội đạt được những kết quả tương tự khi dữ liệu được số hóa đầy đủ.
Từ vận hành truyền thống sang mô hình bệnh viện số
Bệnh viện số là một trong những cấu phần quan trọng của y tế số. Ở nhiều nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD, bệnh viện số đã giúp giảm trung bình 20-30% thời gian chờ khám, giảm 15% chi phí vận hành và tăng 25% hiệu quả sử dụng giường bệnh. Việt Nam đang từng bước đi theo xu hướng này. Các bệnh viện tuyến trung ương như Bạch Mai, Chợ Rẫy, Trung ương Huế đã triển khai mô hình bệnh án điện tử toàn diện, kết nối hệ thống PACS - HIS - LIS và tích hợp chữ ký số của bác sĩ. Nhờ đó, quy trình khám chữa bệnh được tự động hóa từ lúc tiếp nhận đến khi thanh toán, giảm thiểu thao tác thủ công và hạn chế sai sót.
AI trong chẩn đoán hình ảnh đang tạo ra thay đổi lớn. Thuật toán học sâu có thể phát hiện tổn thương nhỏ mà mắt thường khó nhận ra, đặc biệt trong các bệnh về phổi, gan và tim mạch. Một nghiên cứu tại Mỹ cho thấy AI có thể tăng tỷ lệ phát hiện ung thư phổi sớm thêm 23%. Tại Việt Nam, một số bệnh viện đã ứng dụng AI để phân tích X-quang và CT, giúp bác sĩ đưa ra chẩn đoán nhanh trong các ca cấp cứu, đặc biệt ở khu vực thiếu bác sĩ chuyên khoa.
Telehealth cũng đang chứng minh vai trò quan trọng, nhất là tại vùng sâu vùng xa. Trong giai đoạn dịch Covid-19, hệ thống Telehealth quốc gia đã hỗ trợ hàng nghìn ca bệnh khó mà không cần chuyển tuyến. Đây là tiền đề để Việt Nam mở rộng các mô hình chăm sóc tại nhà, theo dõi bệnh mãn tính bằng thiết bị IoT y tế và triển khai các nền tảng tư vấn sức khỏe trực tuyến.
Thách thức trong bảo vệ dữ liệu y tế
Bảo vệ dữ liệu y tế là một nhiệm vụ sống còn. Theo khảo sát của IBM năm 2024, ngành y tế là lĩnh vực chịu thiệt hại tài chính lớn nhất khi xảy ra tấn công mạng, với chi phí trung bình 10,93 triệu USD mỗi sự cố. Việt Nam không nằm ngoài nguy cơ này. Nghị quyết 68 vì vậy yêu cầu thiết lập hệ thống bảo mật đa tầng, mã hóa toàn diện, giám sát chủ động và xây dựng trung tâm điều hành an ninh mạng chuyên ngành. Các bệnh viện phải tuân thủ phân loại dữ liệu theo mức độ nhạy cảm và triển khai giải pháp nhận diện - định danh mạnh, đặc biệt khi kết nối liên thông dữ liệu giữa các tuyến.
Ngoài yếu tố an ninh, ngành y tế còn đối mặt với thách thức thiếu chuẩn dữ liệu thống nhất. Các hệ thống HIS, PACS, LIS tại các bệnh viện thường do nhiều nhà cung cấp khác nhau phát triển, dẫn đến không tương thích. Việc ban hành Bộ chuẩn dữ liệu y tế quốc gia là yêu cầu cấp thiết để tạo ra ngôn ngữ chung cho toàn bộ hệ thống.
Liên tục trong thời gian vừa qua, nhiều bệnh viện đã bị tấn công mạng, không chỉ gây gián đoạn hoạt động mà còn dẫn đến rò rỉ dữ liệu, ảnh hưởng đến quyền riêng tư và thậm chí đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Cụ thể, vụ tấn công mạng vào hệ thống y tế đã xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh An Giang, hệ thống máy chủ ảo hóa của bệnh viện bị tin tặc tấn công mạng làm cho toàn bộ dữ liệu bị mã hóa, hệ thống bị ngưng trệ, không thể hoạt động.
Tháng 3/2024, một số IP ảo nước ngoài tấn công vào website lấy số khám bệnh trực tuyến của Bệnh viện Tim TP.HCM khiến bệnh viện phải đóng hệ thống lấy số để khắc phục và chạy hệ thống dự phòng.
Theo thông tin từ diễn đàn tội phạm mạng, tháng 6/2024 tin tặc đã rao bán thông tin 112.000 hồ sơ của bệnh nhân và nhân viên y tế của Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc bao gồm tên, thông tin liên lạc, hồ sơ y tế và thông tin tài chính. Chưa dừng lại ở đó, bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM bị lộ thông tin trên mạng về nhân sự, danh sách hơn 50 máy chủ…
Tháng 10/2024 tin tặc đã tấn công vào hệ thống mạng của Bệnh viện Đa khoa Đức Giang và mã hóa tổng cộng 9 máy chủ, khiến bệnh viện mất lượng dữ liệu lớn, hệ thống bệnh viện bị tê liệt.
Tháng 1/2025, hệ thống quản lý bệnh viện HIS tại Trung tâm điều trị theo yêu cầu và quốc tế Bệnh viện Trung ương Huế bị tấn công mã hóa hơn 500GB dữ liệu và yêu cầu trả tiền để được giải mã dữ liệu.
Theo phân tích của các chuyên gia, những rủi ro này không chỉ đến từ bên ngoài mà còn từ nhận thức hạn chế của nhân viên y tế về an ninh mạng.
Nhiều cơ sở khám, chữa bệnh chưa triển khai đầy đủ các biện pháp bảo đảm an toàn thông tin theo quy định gồm các biện pháp quản lý và biện pháp kỹ thuật quy định.
Thượng tá Lê Xuân Thủy - Giám đốc Trung tâm An ninh mạng Quốc gia (A05), Bộ Công an cho hay, mới đây, một bệnh viện tại Việt Nam đã phải 'cầu cứu' vì bị hacker tấn công, đe dọa công khai dữ liệu bệnh nhân và lịch sử khám chữa bệnh trên mạng Internet.
“Không bệnh nhân nào muốn đời tư của mình bị tung lên mạng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng. Vấn đề là không phải bệnh viện không nhìn thấy rủi ro đó, mà là chưa có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh để họ phải quan tâm một cách đúng mực”, ông Lê Xuân Thủy cho hay.
Từ thực tế trên cho thấy nhân lực công nghệ y tế cũng là vấn đề đáng lo ngại. Chi phí đầu tư cho hạ tầng số vẫn là rào cản. Công nghệ thay đổi nhanh khiến nhiều bệnh viện lo ngại đầu tư lớn sẽ lạc hậu nhanh. Do đó, mô hình thuê dịch vụ CNTT, hợp tác công tư và khuyến khích doanh nghiệp Make in Vietnam tham gia xây dựng nền tảng số là hướng đi phù hợp và bền vững.

Chuyển đổi số y tế đang mở ra một kỷ nguyên mới, nơi sức khỏe người dân được quản lý xuyên suốt, bác sĩ được hỗ trợ bởi công nghệ tiên tiến. Ảnh: VS
Hướng tới nền y tế số hiện đại
Chuyển đổi số y tế đang mở ra một kỷ nguyên mới, nơi sức khỏe người dân được quản lý xuyên suốt, bác sĩ được hỗ trợ bởi công nghệ tiên tiến, bệnh viện vận hành thông minh và dữ liệu trở thành nguồn lực chiến lược. Ba nghị quyết của Bộ Chính trị đã tạo nền tảng vững chắc cho tiến trình này, từ hoàn thiện hạ tầng dữ liệu, đảm bảo an ninh mạng đến thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Tầm nhìn của Việt Nam là xây dựng một hệ thống y tế số lấy người dân làm trung tâm, trong đó mọi quyết định điều trị, dự phòng và quản trị đều dựa trên dữ liệu chính xác. Đây là con đường giúp Việt Nam không chỉ nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe mà còn hội nhập mạnh mẽ vào hệ sinh thái y tế số toàn cầu.





























