Chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam cân bằng giữa răn đe tội phạm và nhân đạo
Trong 80 năm xây dựng và phát triển đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam không ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm tốt quyền con người, trong đó có quyền sống. Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực thù địch, một số tổ chức và cá nhân thiếu thiện chí vẫn cố tình xuyên tạc, cho rằng Việt Nam duy trì hình phạt tử hình là 'vi phạm quyền sống', 'thiếu nhân đạo'. Đây là mưu đồ nhằm phủ định những thành tựu bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Luật pháp quốc tế không cấm quốc gia thành viên áp dụng hình phạt tử hình
Hình phạt tử hình được hiểu là việc tước bỏ tính mạng của một người theo một bản án được tuyên bởi một tòa án hợp pháp, để trừng phạt người đó vì đã phạm một tội ác nghiêm trọng. Mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ áp dụng hình phạt này ở các tội danh khác nhau. Hiện nay, trên thế giới còn 83 quốc gia có luật định áp dụng hình phạt tử hình, trong số đó phần lớn vẫn duy trì và thi hành án tử hình.
Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 không có bất cứ quy định nào cấm quốc gia thành viên áp dụng hình phạt tử hình. Việc duy trì hình phạt tử hình (hình phạt nghiêm khắc nhất) có sức răn đe nhất định trong phòng, chống những hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đe dọa quyền sống của người khác như tội phạm ma túy, tội phạm cố ý giết người...

Ảnh minh họa: baochinhphu.vn
Qua nghiên cứu, Hội Luật gia Việt Nam đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể trong các giai đoạn trước và sau khi quy định hình phạt tử hình để minh chứng cho tác dụng của hình phạt tử hình đối với việc làm giảm các hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm này. Ở nước Anh, tỷ lệ tội phạm giết người tăng lên kể từ khi hình phạt tử hình bị xóa bỏ, cụ thể, từ 300 vụ (năm 1964) tăng lên 565 vụ (năm 1994) và 833 vụ (năm 2004). Tại nước Mỹ, giai đoạn 1993-1997, khi số lượng hình phạt tử hình được áp dụng đối với tội giết người tăng lên thì tỷ lệ phạm tội giết người giảm xuống 26%.
Theo các chuyên gia, việc áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (buộc phải áp dụng hình phạt tử hình) được xem là một trong những biện pháp đền bù thỏa đáng cho nạn nhân và gia đình nạn nhân, đồng thời, đây cũng là hình thức bảo vệ công lý. Hơn nữa, nếu đối xử nhân đạo bằng cách không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì vô hình trung đã đối xử phi nhân đạo đối với nạn nhân, vì việc bảo vệ quyền sống cho người phạm tội (bỏ hình phạt tử hình) được xem là đã và đang dung dưỡng, ưu ái bảo vệ quyền sống cho người có hành vi xâm phạm nghiêm trọng hoặc có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến quyền sống của người khác. Thực tế cho thấy, trong tất cả hình phạt được các quốc gia, nhà nước áp dụng thì tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện sức mạnh của chính quyền nhà nước đối với các loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Việc duy trì hình phạt tử hình phụ thuộc điều kiện đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa, tôn giáo và hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Vạch trần luận điệu xuyên tạc "Việt Nam vi phạm nhân quyền vì duy trì hình phạt tử hình"
Luật pháp Việt Nam đang giảm dần số tội danh áp dụng hình phạt tử hình theo xu hướng chung nhưng có lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội. Thực tế, chính sách hình sự của Việt Nam cân bằng giữa răn đe tội phạm và nhân đạo. Với tình hình chính trị, kinh tế-xã hội hiện nay chưa phải là thời điểm mà Việt Nam xóa bỏ hình phạt tử hình. Mặt khác, việc Việt Nam áp dụng hình phạt này đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là “vi phạm nhân quyền” như một số thế lực rêu rao, bởi lẽ:
Thứ nhất, Việt Nam luôn ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền sống theo Hiến pháp, pháp luật và thông lệ quốc tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam giành được độc lập, tự do và giữ vững nền độc lập, tự do đó trong suốt 8 thập kỷ qua. Đây là cơ sở chính trị-xã hội để Việt Nam bảo vệ, bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền sống. Thông qua 5 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), quyền sống luôn được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 hiến định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19), đồng thời “Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng” (Điều 38).
Quyền sống không chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng mà còn bao gồm cả tự do về tinh thần, bảo đảm sự tồn tại của con người như việc chống chiến tranh, tội phạm chiến tranh, phòng, chống các hành vi xâm hại tính mạng con người, giảm tỷ lệ chết ở bà mẹ và trẻ sơ sinh. Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm trên 5 lần, từ mức 233/100.000 trẻ đẻ sống (năm 1990) xuống còn 44/100.000 trẻ đẻ sống (năm 2023); tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm hơn 4 lần, từ 44‰ xuống còn 11,6‰; tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm gần 4 lần, từ mức 58‰ xuống còn 16,9‰.
Hiến pháp 2013 hiến định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Điều đó cho thấy, ở Việt Nam, quyền con người trong các trường hợp trên bao gồm cả quyền sống có thể bị giới hạn vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Trong các biện pháp giới hạn đó bao gồm cả hình phạt tử hình.
Theo Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung các năm 2017, 2025), tử hình là “hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định” (khoản 1 Điều 40). Rõ ràng, Việt Nam áp dụng hình phạt tử hình có cơ sở pháp lý vững chắc, phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đây không phải là vi phạm nhân quyền mà là biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền sống, quyền được sống trong hòa bình của đại đa số người dân.
Thứ hai, chính sách hình sự của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, giảm hình phạt tử hình, tuân thủ nguyên tắc pháp quyền.
Hình phạt tử hình không phải công cụ trừng phạt bừa bãi mà là biện pháp cuối cùng để bảo vệ xã hội trước tội phạm cực kỳ nghiêm trọng. Hình phạt này chỉ áp dụng cho người có hành vi phạm tội đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia hoặc tính mạng con người, phù hợp với luật nhân quyền quốc tế.
Để phù hợp xu hướng quốc tế và yêu cầu nhân đạo trong chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới đất nước, số lượng hình phạt tử hình ở Việt Nam liên tục được giảm từ 44 tội năm 1985 (chiếm khoảng 20% tổng số tội danh) xuống 29 tội năm 1999 (chiếm khoảng 11% tổng số tội danh), 22 tội năm 2009 (chiếm khoảng 8% tổng số tội danh), 18 tội năm 2015 (chiếm khoảng 5,7% tổng số tội danh) và còn 10 tội năm 2025 (chiếm khoảng 4% tổng số tội danh).
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2025 đã bỏ án tử hình ở 8 tội danh, gồm: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; tội gián điệp; tội phá hoại cơ sở vật chất-kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội vận chuyển trái phép chất ma túy; tội tham ô tài sản; tội nhận hối lộ; tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự hiện hành quy định không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội; không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người đủ 75 tuổi trở lên; người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối.
Những con số trên là minh chứng rõ nét nhất cho sự nỗ lực mạnh mẽ về tư duy, nhận thức, xây dựng và thực tiễn thi hành, áp dụng quy định pháp luật của Việt Nam trong lộ trình giảm hình phạt tử hình. Mặt khác, việc thi hành án tử hình được thực hiện theo quy trình chặt chẽ, bảo đảm tính nhân đạo và tuân thủ pháp luật. Mọi vụ án có khung hình phạt tử hình đều trải qua 3 cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm) và phải được Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao phê chuẩn trước khi thi hành án. Ngoài ra, để bảo đảm tố tụng đối với vụ án áp dụng đặc biệt nghiêm trọng, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) quy định chặt chẽ các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với những người phạm tội có khung hình phạt tử hình. Cùng với đó, Nhà nước luôn ưu tiên giảm nhẹ hình phạt thông qua ân giảm án, đặc xá.
Thứ ba, Việt Nam duy trì hình phạt tử hình không trái với quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế, vì thế không vi phạm nhân quyền.
Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 quy định “Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện. Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng án tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất... Không một quy định nào trong điều này có thể được viện dẫn để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ hình phạt tử hình tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước” (khoản 1, 2, 6 Điều 6).
Với quy định đó, luật nhân quyền quốc tế vẫn quy định mở việc áp dụng các biện pháp pháp lý để tước đoạt quyền sống của con người theo trình tự, thủ tục y tế và pháp lý chặt chẽ, trong đó bao gồm cả hình phạt tử hình. Điều đó có nghĩa rằng, mặc dù coi quyền sống của con người luôn là quyền gốc, quyền thiêng liêng, quý giá nhất của con người nhưng luật nhân quyền quốc tế không coi quyền sống là quyền tuyệt đối và cũng không cấm các quốc gia thành viên áp dụng hình phạt tử hình.
Với những quy định của Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Việt Nam đã gia nhập từ năm 1982), việc Việt Nam còn duy trì hình phạt tử hình trong pháp luật và thực tế hoàn toàn không trái với quy định pháp luật nhân quyền quốc tế. Vì thế, mọi cáo buộc của thế lực thù địch cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền vì còn duy trì hình phạt tử hình là sai sự thật và không có cơ sở pháp lý. Sự tiến bộ của chính sách, pháp luật hình sự Việt Nam thể hiện qua việc giảm dần số lượng hình phạt tử hình và hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự chính là câu trả lời đanh thép đối với những xuyên tạc của thế lực thù địch về vấn đề trên. Những cáo buộc đó càng bộc lộ rõ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề nhân quyền của thế lực thù địch để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, do đó, chúng ta cần phải cảnh giác, đấu tranh, bác bỏ.





























