Chiết xuất từ cây đại bi tiền năng thay thế kháng sinh

Theo nghiên cứu của nhóm tác giả ở Trường ĐH Cần Thơ và Trường ĐH Đồng Tháp, cao chiết từ thân và lá của cây đại bi có hoạt tính kháng ôxi hóa và kháng khuẩn, có tiềm năng thay thế kháng sinh thương mại.

Những hoạt chất quý có tính kháng khuẩn mạnh

Nhóm tác giả gồm Lê Thị Bạch, Lê Thị Thanh Xuân, Trần Chí Linh, Nguyễn Thị Thúy Tâm, Tăng Huỳnh Chi, Lê Thị Diễm Thùy, Trần Ngọc Phụng, Trần Phạm Xuân Mai, Hồ Tường Anh, Bùi Thanh Long và Nguyễn Ngọc Minh Thi, Trường Đại học Cần Thơ, Đại học Đồng Tháp và Đại học Nam Cần thơ đã nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây đại bi (Blumea balsamifera).

Theo TS Lê Thị Bạch, trưởng nhóm nghiên cứu, cây đại bi, với tên khoa học là Blumea balsamifera, thuộc họ Cúc, phân bố rộng rãi ở các nước như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia,… Tại Việt Nam, đại bi được tìm thấy từ Bắc vào Nam, với nhiều tên gọi khác nhau như mai hoa băng phiến, long não hương, mai phiến, ngãi nạp hương, đại ngải…

Cây đại bi chứa nhiều thành phần hoạt chất kháng khuẩn mạnh.

Cây đại bi chứa nhiều thành phần hoạt chất kháng khuẩn mạnh.

Một số nghiên cứu dược lý cho thấy, cây đại bi có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, gây độc tế bào ung thư, bảo vệ gan, và kháng oxi hóa. Thành phần hóa học của cây bao gồm các nhóm hợp chất như flavonoid, terpene, và phenol. Tuy nhiên, tại Việt Nam, nghiên cứu về hoạt tính kháng ôxi hóa, kháng khuẩn cũng như thành phần hóa học của cây đại bi vẫn còn hạn chế.

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu về cây đại bi nhằm cung cấp thêm dữ liệu về nguồn thảo dược tự nhiên tại Việt Nam. Theo đó, thân và lá cây đại bi được thu hái tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Nguyên liệu tươi sau khi thu hái được xử lý và sấy khô ở nhiệt độ 50 độ C. Tiếp theo, nguyên liệu được nghiền nhuyễn và bảo quản ở nhiệt độ 4 độ C để làm vật liệu nghiên cứu.

Bột nguyên liệu được ngâm trong dung môi ethanol 96% trong 24 giờ rồi cô đặc bằng phương pháp cô quay, thu cao tổng ethanol. Sau đó, cao tổng được chiết lỏng, sử dụng các dung môi có độ phân cực tăng dần: n-hexane, ethyl acetate, và methanol. Dịch chiết từ từng dung môi được cô quay để loại bỏ dung môi, thu về các cao phân đoạn tương ứng.

Hoạt tính kháng khuẩn của các cao chiết được đánh giá bằng phương pháp khuếch tán giếng thạch, dựa trên khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn, thể hiện qua đường kính vòng kháng khuẩn. Các khuẩn được chọn cho khảo nghiệm này là Vibrio sp. và Aeromonas caviae, là các khuẩn gây bệnh chủ yếu cho động vật thủy sản. Những khuẩn này còn gây nhiễm trùng đường ruột, viêm dạ dày, ruột cấp tính, thường liên quan đến ngộ độc thực phẩm do hải sản nhiễm khuẩn,… Cả Vibrio sp. và Aeromonas caviae đều liên quan đến nhiễm khuẩn từ môi trường nước và thực phẩm, đặc biệt là hải sản.

Cây đại bi (tên khoa học là Blumea balsamifera) và thuộc họ Cúc (Asteraceae). Trong dân gian Việt Nam còn được gọi với các tên khác như: cây từ bi xanh, mai hoa băng phiến, long não hương, mai phiến, ngãi nạp hương, đại ngải, co nát, phặc phà,... tùy dân tộc và vùng miền.

Có thể tìm thấy cây băng phiến ở khắp nơi trên nước ta. Cây mọc hoang từ rừng núi cho đến đồng bằng, đặc biệt là nơi nhiều ánh sáng. Không chỉ mọc nhiều ở Việt Nam, cây từ bi xanh còn xuất hiện ở các nước khác như Trung Quốc (nhất là các vùng Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam), Ấn Độ, Malaisia, Indonesia, Philippin,…

Tiềm năng thay thế kháng sinh thương mại

Kết quả cho thấy, hầu hết các cao chiết từ cây đại bi đều có khả năng ức chế cả hai dòng vi khuẩn nói trên, nhưng hiệu quả rõ rệt chỉ bắt đầu xuất hiện ở nồng độ 128 µg/mL. Đường kính vòng kháng khuẩn tỉ lệ thuận với nồng độ cao chiết, nghĩa là khả năng kháng khuẩn tăng lên khi nồng độ cao chiết tăng. Cụ thể, tại nồng độ 128 µg/mL, cao chiết ethyl acetate có khả năng kháng khuẩn Aeromonas caviae mạnh nhất và hiệu quả kháng Aeromonas caviae tốt hơn so với Vibrio sp..

So sánh độ nhạy cảm của vi khuẩn đối với kháng sinh cho thấy, Vibrio sp. và Aeromonas caviae nhạy cảm hơn với cao chiết ethyl acetate từ cây đại bi so với kháng sinh ampicillin. Tại nồng độ 128 µg/mL, cao chiết ethyl acetate có hoạt tính ức chế rõ rệt đối với cả hai chủng vi khuẩn, với đường kính vòng kháng khuẩn lần lượt là 21,50 ± 0,15 mm và 25,76 ± 0,26 mm. Ngược lại, ampicillin không có khả năng ức chế hai dòng vi khuẩn này ở nồng độ dưới 500 µg/mL.

Theo nhóm tác giả, sự nhạy cảm của vi khuẩn đối với các phương pháp điều trị là yếu tố quan trọng trong việc xử lý bệnh nhiễm khuẩn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hai chủng vi khuẩn khảo sát đều nhạy cảm với cao chiết ethyl acetate từ cây đại bi, chứng minh rằng các thảo dược có tiềm năng thay thế kháng sinh thương mại, với ưu điểm là mức độ an toàn cao hơn.

Hoạt tính kháng ôxi hóa in vitro của các cao chiết đại bi được đánh giá bằng hai phương pháp trung hòa gốc tự do DPPH (2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl) và ABTS (2,2'-azino-bis 3-ethylbenzothiazoline-6-sulfonic acid). Trong cả hai phương pháp, cao ethyl acetate đều thể hiện hoạt tính kháng ôxi hóa tốt nhất trong các cao khảo sát với giá trị IC50 (nồng độ ức chế tối đa một nửa, một thước đo việc ức chế một chức năng sinh học hoặc hóa sinh đặc biệt), lần lượt là 96,45 µg/mL và 58,36 µg/mL, tương ứng với hai phương pháp DPPH và ABTS.

Nhóm tác giả cũng đã phân lập được ba hợp chất trong cao phân đoạn ethyl acetate từ cây đại bi, đó là tetrahydroxy flavone (luteolin), catechin và oleanolic acid. Cùng với các hợp chất flavonoid khác, luteolin được xem là một trong những hợp chất quan trọng quyết định hoạt tính kháng ôxi hóa, kháng vi sinh vật, kháng ung thư hiệu quả. Hợp chất catechin thì khá phổ biến trong tự nhiên với hoạt tính kháng ôxi hóa mạnh. Trong khi đó, oleanolic acid là hợp chất tự nhiên có trong nhiều loài thực vật, có khả năng chống ôxi hóa, kháng viêm, kháng ung thư, bảo vệ gan…

Việt Nam có nhiều tiềm năng dược liệu nhưng chủ yếu ở dạng chế biến thô.

Việt Nam có nhiều tiềm năng dược liệu nhưng chủ yếu ở dạng chế biến thô.

Phát huy hết giá trị của dược liệu

Theo PGS.TS Trần Văn Ơn - nguyên Trưởng Bộ môn Thực vật, Trường Đại học Dược Hà Nội, Việt Nam có nhiều loài dược liệu có giá trị cao, là dược liệu quý được thế giới công nhận như sâm Ngọc Linh, thông đỏ, hoa hòe, trinh nữ hoàng cung, giảo cổ lam...

Tuy nhiên, theo PGS.TS Trần Văn Ơn, trong nhiều năm qua, ngành này vẫn chưa khai thác hết tiềm năng vốn có, chủ yếu mới dừng lại ở khai thác thô, giá trị gia tăng thấp, chưa tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế. Ngành Dược liệu cũng gặp khó khăn trong toàn chuỗi giá trị về sản lượng, sự đồng bộ các tiêu chuẩn và thiếu công nghệ lõi chiết xuất, khiến dược liệu của Việt Nam bị lép vế trước các đối thủ thế giới.

Một trong những nguyên nhân chính khiến ngành Dược liệu trong nước chưa khai thác hết tiềm năng là do phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này còn nhỏ, sức cạnh tranh yếu, thiếu công nghệ lõi cho chế biến dược liệu, đặc biệt là công nghệ chiết xuất. Kim ngạch xuất khẩu dược liệu của Việt Nam vẫn đang ở mức khiêm tốn, chỉ đạt vài trăm triệu USD mỗi năm.

Theo thống kê của Bộ Công thương, trong năm 2024, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu dược liệu từ quế, hồi với khối lượng 33.528 tấn quế, tổng kim ngạch đạt hơn 96 triệu USD. Những sản phẩm dược liệu khác như: thảo quả, nghệ, kê huyết đằng... vẫn còn manh mún, quy mô nhỏ, theo kiểu mạnh ai nấy làm.

Để đánh thức tiềm năng thực sự của dược liệu, cần có giải tổng thể phát triển và hình thành trung tâm công nghiệp dược liệu, phát triển dược liệu trở thành một ngành công nghiệp cho năng suất cao, không chỉ phục vụ sức khỏe cộng đồng, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân vùng DTTS miền núi.

Trong Y học Cổ truyền, lá từ bi được sử dụng để chữa cảm cúm, sốt, xông để tăng tiết mồ hôi,… nhờ khả năng khu phong, trừ thấp, hoạt huyết, tiêu ứ và sát trùng. Ngoài ra, nước sắc từ lá đại bi có tác dụng làm giảm triệu chứng đầy hơi, ăn không tiêu, chữa ho, trừ đờm. Băng phiến đại bi từ xưa đến nay đã được dùng để chữa đau bụng, đau tức ngực, ho, ngạt mũi lâu ngày, đau rát họng, cảm sốt và làm sáng mặt.

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/chiet-xuat-tu-cay-dai-bi-tien-nang-thay-the-khang-sinh-169250925210051973.htm