Chiếc chân giả của Howard Burnham
Mather Howard Burnham (27/5/1870 - 4/5/1917), là một người Mỹ có tên là Howard; anh trai của ông là Frederick Russell Burnham vốn là một trinh sát lừng danh. Howard chu du khắp thế giới và thường làm việc với tư cách kỹ sư khai mỏ. Trong thời Thế chiến II, Howard làm sĩ quan tình báo và gián điệp cho chính phủ Pháp. Ông có một cái chân gỗ và dùng nó để che giấu những công cụ phục vụ cho hoạt động gián điệp khi ông hoạt động sau chiến tuyến địch.
Chạm súng với người da đỏ
Howard Burnham chào đời trong một gia đình truyền giáo tại khu bảo tồn người Anh Điêng Sioux ở Tivol (tiểu bang Minesota, gần Mankato) chỉ trước khi gia đình ông chuyển sang Los Angeles (California). Ông lấy tên của người anh họ vốn là Trung úy Howard Mather Burrham, một sĩ quan từ thời Nội chiến Mỹ đã tử trận trong trận chiến Chickamauga. Cha của Howard Burnham là linh mục Erwin Orway Burnham giáo xứ Kentucky (cũng là một nhà truyền giáo lâu năm) đã tạ thế khi con trai mới lên 3 và đẩy gia đình rơi vào cảnh túng quẫn.
Howard Burnham và người mẹ đẻ Rebecca (Elizabeth) Russell Burnham buổi ban đầu sinh sống ở Wesrminster (Middlesex, Anh) đã chuyển nhà cùng với một người chú (sống ở Iowa), nhưng người anh trai của Howard Burnham là Frederick (năm đó 12 tuổi ở California) đã trả nợ cho gia đình và sống tự lập.

Frederick Russell Burnham, trinh sát tài ba, nhà thám hiểm lừng danh, anh trai của điệp viên Mather Howard Burnham.
Ở tuổi 14, Howard Burnham học ở Massachusetts (tiểu bang Illinois) với một chân bị thương, người anh trai đã gửi tiền để đưa em mình về lại Los Angeles. Cái chân bị thương sau đó phải bị cắt bỏ ở độ sâu 10cm dưới đầu gối. Chưa hết, Howard Burnham còn mắc bệnh lao, và sau khi bị cắt cụt chân, ông buộc phải nghỉ dưỡng một thời gian dài. Trong 2 năm đó, Hioward Burnham sống với anh trai và người anh đã dạy em mình cách bắn súng, đóng yên ngựa, vận chuyển gia súc; những kỹ năng trinh sát, cách cưỡi ngựa trên đồng cỏ… tất cả đều có sự tham gia của cái chân gỗ.
Là một người mê đọc sách và có trí nhớ tuyệt vời, Howard Burnham hết các sách về những chiến lược và chiến thuật quân sự, đồng thời bị mê hoặc với các sách về lịch sử, địa lý, luyện kim và khai thác mỏ. Ông lang thang qua các hoang mạc từ Thung lũng Chết đến hạ California, sống và học hỏi từ những người da đỏ Cathuilla ở Agua Caliente (nay là Palm Springs, California); hoặc cách tìm vàng từ những người đơn độc để tìm vàng sa mạc, tìm kho báu, hoặc những bí ẩn của sự kiện Cơn sốt vàng California.
Năm 1888, trong một chuyến thám hiểm hoang mạc, Howard Burnham đã đấu súng với một người da đỏ. Trước đó anh đang đi qua một con đường mòn cũ nằm giữa Kawia và San Jacinto và không đầy một giờ trước cuộc tấn công thì anh ta đã gặp gỡ với người da đỏ nọ và còn trò chuyện bằng tiếng Tây Ban Nha. Howard Burnham ung dung đi trên con đường mòn cho đến khi nghe một tiếng nổ nhỏ và dường như có thứ gì đó đập vào chân phải của mình, rồi một tiếng nổ nhỏ thứ hai khiến chân trái của anh bị thương. Ngay tức khắc Howard nằm áp xuống đất và thận trọng quan sát xung quanh để tìm kẻ thù. Khi nhìn thấy một cái nón nhô lên phía sau tảng đá ở cách đó 150 mét, Howard liền móc súng lục và bóp cò vào chiếc nón. Kẻ địch liền nhảy xuống rạch nước Los Coyotes xuôi theo đường mòn mà Howard đang đi nhằm mở một cuộc phục kích mới.
Howard Burnham chợt nhận ra kẻ thù của mình là gã da đỏ mà anh ta gặp trước đó không lâu và biết rằng tay này đang cầm khẩu súng trường Winchester nên đã hạ gục gã. Howard Burnham nhanh chóng lên ngựa phi nước đại chạy trốn an toàn đến San Jacinto, bỏ lại sau lưng đàn gia súc, các dụng cụ, đồ tiếp tế và chăn màn. Vài năm tiếp theo đó, Howard Burnham học khai khoáng và làm việc trong sa mạc California, trở thành kỹ sư khai mỏ tại mỏ khoáng sản Alvord - một mỏ vàng của gia đình Burnham-Clapp (làm chủ và điều hành) cùng các đối tác thương mại Pasadena của họ trong giai đoạn 1885-1891. Howard đã nhận được chứng chỉ khai thác chuyên nghiệp từ Công xưởng hóa học Thái Bình Dương của San Francisco, một công ty thử nghiệm do ông Henry Garber Hanks (nhà khoáng vật học đầu tiên của tiểu bang California) làm chủ và điều hành.

Các thành viên trong gia đình điệp viên Howard Burnham.
Hoạt động ở Nam Phi, Rhodesia và Mexico
Sau khi mỏ Alvord ở California bị phá hủy trong một vụ hỏa hoạn, Howard Burnham ở California tới năm 1894 nhằm giải quyết công việc gia đình liên quan đến mỏ khoáng sản và chuyển đến Cộng hòa Nam Phi ngay khi có thể để đoàn tụ với người anh trai Frederick tại Bulawayo (Matabeleland). Tại đó, Howard cũng làm kỹ sư khai khoáng, phụ trách phòng thí nghiệm phân tích và nấu chảy tại Mỏ khoáng sản hoàng gia Langlaagte ở Tansvaal.
Năm 1895, ông cùng với người anh trai thực hiện một chuyến viễn du tới Bắc Rhodesia thì bị bệnh và buộc phải rời Châu Âu để trị bệnh. Sau đó Howard rời nước Đức cùng với người cháu trai Roderick và cùng đến London (Anh). Năm 1895, Howard kết hôn với người vợ đầu tiên Margaret. Trong các năm từ 1896 đến 1898, Howard quay về Mỹ để theo học tại Trường khai khoáng Michigan (nay là Đại học Công nghệ Michigan) rồi tốt nghiệp với bằng cử nhân.
Tháng 9/1898, Howard cùng vợ sang châu Phi, ông làm việc cho một nghiệp đoàn Anh và giám sát hơn 2.000 thợ mỏ tại mỏ vàng Rosa gần Johannesburg (Nam Phi). Trong thời gian ở Transvaal, Howard Burnham là nhà hóa học trưởng kiêm kỹ sư, và trợ lý thanh tra tại mỏ, ông cũng đồng thời viết nên cuốn sách giáo khoa mang tiêu đề “Đánh giá mỏ hiện đại”. Khi Chiến tranh Boer lần 2 bùng nổ vào năm 1899, Howard cho rằng ông sẽ được bảo vệ vì tư cách công dân Mỹ của mình.
Ban đầu, ông làm việc tại mỏ khai khoáng thuộc Cộng hòa Boer, song để phòng ngừa, ông đã gửi vợ tới Cape Town (Nam Phi khi đó là thuộc địa Anh. Rồi tình hình ở Johannesburg nhanh chóng biến động: người Boer tiếp quản các mỏ và bắt đầu khai thác lợi ích của chúng. Howard đến Đông London (Nam Phi) để báo cáo tình hình cho các giám đốc nghiệp đoàn. Ông bị người Anh bắt và quản thúc 24 tiếng trước khi được thả khi đã được chứng minh là công dân Mỹ.
Khi quay lại Johannesburg, Howard bị người Boer bắt được vì tưởng ông là gián điệp Anh. Có thời gian Howard còn không chắc mình bị xử bắn hay treo cổ. Howard gửi điện tín xin tiền gia đình để giúp mình thoát khỏi tình cảnh khó khăn. Vài tuần trước đó, anh trai của Howard đang say mê tìm vàng ở Alaska trong sự kiện Cơn sốt vàng Klondike đã nhận được một bức điện tín gửi từ Quý ngài Roberts đề nghị hỗ trợ chiến tranh: Rederick rời Phi Châu chỉ đúng 1 giờ. Frederick Burnham vừa được bổ nhiệm làm Trưởng đoàn hướng đạo cho quân đội Anh và đang trên đường từ Anh đến Nam Phi, hãy còn quá xa để ông có thể giúp đỡ em trai ngay lập tức.
Ngày 18/11/1903, ở London, Howard Burnham đã kết hôn với nữ công tước Newton vốn khi đó là một giáo viên trẻ kiêm người thừa kế của Công ty Newton, Chambers, hai người đã tình cờ gặp nhau trên một chặng hải hành đến Nam Phi. Từ năm 1905 đến năm 1908, Howard Burnham là thành viên không thường trú của Viện thuộc địa Hoàng gia (RCI) ở London.
Trong lúc vợ con vẫn ở lại Anh, Pháp thì năm 1907, Howard Burnham quay về Bắc Mỹ và vài năm sau đó ông trở thành trợ lý dự án thủy lợi sông Yaqui (ở Mexico) cùng với người anh trai Frederick. Năm 1908, Howard và W. A. Wadham thực hiện chuyến khảo sát địa chất và khai mỏ kéo dài một tháng nhằm thay mặt cho các đối tác thương mại Mỹ và Anh. Những cuộc đàm phán đã được thực hiện nhằm mua 4 bất động sản gồm Batue, Mequite, La Fiera cùng một bất động sản khác.
Năm 1909, cùng với Hector Walker nước Anh, họ đã thực hiện hành trình dài 300 dặm từ Phoenix (Arizona) sang Mexico và xuôi về phương Đông xuyên qua Chihuahua để tiến vào Sierra Madres nhằm tìm kiếm những đồng cỏ chăn thả tốt và các mỏ khoáng sản. Frederick đã mua quyền dùng nước và một thửa đất rộng 300 mẫu Anh (tương đương 1,2 km2) trong vùng, đồng thời liên lạc với John Hays Hammond (sống ở Châu Phi, một người bạn cũ của gia đình Burnham), người này có quân lính riêng để mua thêm 900.000 mẫu Anh (hay 3600 km2) đất đai (tương đương kích cỡ tiểu bang Rhode Island).
Ngay khi các dự án thủy lợi và khai khoáng sắp hoàn thành vào năm 1912, thì xảy ra một loạt các cuộc khởi nghĩa ở Mexico. Đòn giáng cuối cùng ập lên kế hoạch của Burnham-Hammond đã diễn ra vào năm 1917 khi chính phủ Mexico thông qua luật cấm bán đất cho người ngoại quốc. Gia đình Burnham và Hammond tiếp tục nắm giữ tài sản của họ đến năm 1930 và bán chúng cho chính phủ Mexico.

Kỹ sư khai mỏ kiêm điệp viên Mather Howard Burnham.
Làm gián điệp trong Thế chiến I
Thời Thế chiến I, Howard Burnham làm việc trong ngành tình báo cho Pháp. Năm 1914, ông bị giam giữ tại một địa điểm nằm gần Tampico (Mexico) vì bị tình nghi là gián điệp nhưng sau đó được phóng thích với sự trợ giúp của William Jennings Bryan vốn khi đó là Ngoại trưởng Mỹ. Ngay lập tức Howard rời Mexico đến Pháp và dừng chân ở Barcelona (Tây Ban Nha) trên đường đến Algiers (Algeria, khi đó nước này là thuộc địa của Pháp mà tình báo Đức đã xâm nhập nhằm hỗ trợ quân nổi dậy).
Howard thực hiện một sứ mệnh nhiều phần nguy hiểm khi dẫn 28 binh sĩ tiến vào sa mạc để hội kiến với phe khởi nghĩa, để từ đó thúc giục họ ký kết hòa bình với Pháp. Trên đường đi, nhóm đã chạm trán với một gia tộc thù địch, mất 20 người, cạn kiệt đạn dược, và bị bắt làm tù binh. Tất cả những người lính đều bị xử tử ngoại trừ Howard Burnham. Trước đó một trưởng lão trong gia tộc đã gặp rắc rối với người Pháp ở Algiers và Howard đã lên tiếng bảo vệ ông và điều đó khiến Howard được tha bổng.
Howard một mình lên đường quay lại Algiers và sau đó được biệt phái sang Pháp. Năm 1917, tình báo Pháp cử Howard vượt phòng tuyến địch nhằm tìm hiểu xem liệu quân Đức có đang chuẩn bị cho một mặt trận mới xuyên qua rặng Alps hay không. Khi đi qua đất nước Thụy Sỹ trung lập, Howard đã lấy lại danh tính trước đây là một kỹ sư khai mỏ người Mỹ và vượt biên vào nước Đức với lý do sức khỏe quá yếu: bệnh lao của ông tái phát dữ dội. Howard Burnham đã dành nhiều thời gian trước chiến tranh tại các khu spa ở Đức và công việc của ông cho tình báo Pháp đã được phân loại tuyệt mật, vì vậy lý do thật sự của việc từ cõi chết trở về của Howard đã không khiến phía Đức tỏ ý hồ nghi. Thêm vào đó, Howard đi lại với một lượng lớn đồng tiền vàng Mỹ dùng để điều trị bệnh, mặt khác vàng là thứ rất cần thiết trong thời chiến ở Đức. Tuy vậy, trong suốt thời gian ở Đức, Howard đã bị theo dõi và tra soát chặt chẽ.
Trong thời gian ở Đức, Howard đã áp dụng tay nghề của mình để chế những thứ vật dụng đơn giản thành những công cụ khảo sát hết sức hữu ích, chưa hết ông còn dùng cái chân gỗ để che giấu những thứ này khi đi đến những nơi như thị trấn Bad Nauheim. Do chi phí điều trị cao, mỗi tháng phải trả số vàng tương đương 500 USD, Howard được chào đón nồng nhiệt tại các resort ở Đức. Tất cả thư từ của Howard đều được xem xét và theo yêu cầu của chính quyền Đức, ông thường xuyên được hộ tống bởi một hoặc nhiều y tá và có cả một thư ký riêng. Nhưng vì không thể ghi chép vĩnh viễn các cuộc khảo sát và những phát hiện khác trên giấy nên buộc lòng Howard phải dùng chính trí nhớ tuyệt vời của mình. Howard lâm bệnh nặng và được phép trở lại Thụy Sỹ để dưỡng bệnh. Chính phủ Pháp nhanh chóng chở ông đến Cannes (Pháp).
Từ trên giường bệnh, Howard Burnham chia sẻ những bí mật mà ông cố gắng lưu vào bộ nhớ cùa mình cho các sĩ quan tình báo khác và chính phủ Pháp đã hộ tống gia đình Howard từ Anh đến Cannes. Dữ liệu mà Howard thu được rất thuyết phục người Pháp: người Đức không mở mặt trận mới trên dãy Alps, không cần phải di chuyển binh lính từ Mặt trận phía Tây đến đó. Những lời mà Howard dặn dò với bác sĩ mổ của mình: “Tôi luôn muốn trả món nợ mà nước tôi mắc nợ nước Pháp. Ông hãy quay lại tiền tuyến và cứu những người còn sống. Tôi đã chết rồi”.
Thi hài của Howard được an táng tại Cannes ngay bên cạnh mộ của A. Kingsley Macomber (một người Mỹ) nhằm vinh danh đô đốc người Pháp, Francois Joseph Paul de Grasse - người có hạm đội đã giúp George Washington ép buộc lãnh chúa Cornwallis phải đầu hàng tại Yorktown (nay là tiểu bang Virginia) năm 1781.