Chị tôi

Nhà tôi nằm nép mình bên một nhánh sông nhỏ, giữa vùng quê trũng của miền Tây Nam Bộ. Mỗi năm, khi con nước từ thượng nguồn đổ về, đồng ruộng mênh mông hóa thành biển nước. Nước lũ đục ngầu, cuốn theo phù sa, rác rến và cả những nỗi nhọc nhằn của người dân quê lam lũ. Trong căn nhà lá ba gian cũ kỹ, mái tranh lợp qua bao mùa gió dập mưa dồn, tôi lớn lên bên chị Lan - người vừa là chị, vừa là mẹ, vừa là cả bầu trời dịu dàng của tuổi thơ tôi.

Minh họa: PV

Minh họa: PV

Mẹ mất khi tôi còn đỏ hỏn. Ba thì đi làm phụ hồ tận Sài Gòn, vài tháng mới về thăm một lần. Cả tuổi thơ tôi là bóng lưng chị Lan quẩn quanh bếp lửa, là tiếng rao ráng học bài của chị bên ngọn đèn dầu leo lét, là những trưa hè chị ra đồng mót lúa, nhặt từng hạt lúa rơi, về phơi trên tấm bạt loang màu giữa sân.

Năm tôi lên mười, cũng là năm chị Lan mười tám tuổi - cái tuổi mơ mộng và đầy hy vọng. Chị vừa thi đại học xong, mang theo bao ước mơ về giảng đường mà chị vẫn ấp ủ suốt những năm phổ thông. Hồi ấy là cuối tháng tám, đồng lúa trước nhà ngả màu vàng óng, nắng hanh hao trải xuống từng thân lúa chín cong, thoảng hương thơm dịu nhẹ. Những buổi chiều, sau khi nấu cơm, giặt giũ, chị ngồi dưới gốc xoài già, chải mái tóc đen dài như mực tàu, ánh nắng vương lên từng sợi tóc, óng ánh như tơ trời. Tôi ngồi bên, ê a học bảng cửu chương, còn chị thì khẽ hát, giọng trong veo như gió đồng.

Chị Lan mê học. Từ nhỏ, dù nhà nghèo đến đâu, chị cũng chưa từng nghỉ một buổi học. Có lần trời mưa lớn, nước ngập tới đầu gối, chị vẫn lội bộ gần năm cây số để tới trường. Những đêm mùa đông, trời lạnh cắt da, gió rít từng cơn luồn qua vách liếp, chị đốt đèn dầu ngồi học đến khuya, hai tay tím tái mà vẫn miệt mài ghi chép. Có lẽ với chị, con chữ là lối thoát duy nhất khỏi cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo.

Rồi ngày điểm thi được công bố. Tờ giấy báo không có tên chị. Lúc đó, trời vừa đổ mưa. Mưa miền Tây không ào ạt mà dai dẳng, lặng lẽ như tiếng thở dài giấu trong tim. Buổi chiều ấy, chị ngồi thẫn thờ bên hiên, tờ giấy thi nhàu nát trong tay. Tôi chẳng biết nói gì, chỉ lặng lẽ ngồi bên, đưa chị củ khoai luộc còn nóng hổi.

Chị cười, méo xệch:

- Không sao đâu. Năm sau thi lại…

Tối hôm đó, ba gọi điện về. Giọng ông đục ngầu như sương đầu mùa:

- Rớt rồi thì lo đi làm đi. Ở nhà ăn hoài ai nuôi nổi?

Điện thoại cúp máy, chị không nói gì. Chỉ lặng lẽ gấp cuốn vở cũ - cuốn chị hay dùng để viết nhật ký và làm văn cẩn thận cất vào rương gỗ. Tôi nghe tiếng nắp rương đóng lại, khô khốc và dứt khoát. Đêm ấy, khi tôi nằm giả vờ ngủ, tôi nghe tiếng chị thở dài rất khẽ. Tiếng thở ấy không phát ra từ cổ họng mà như từ tận sâu trong lòng, kéo dài, miên man, buốt lạnh như tiếng gió rít xuyên qua mái tranh thủng lỗ chỗ.

* * *

Mùa nước nổi năm sau, khi bầy le le vừa bay về đậu kín những bãi lúa gặt dở, chị Lan khăn gói lên thành phố. Chị bảo:

- Chị đi làm công nhân. Để dành tiền, mai mốt em học xong, không phải bỏ ngang như chị.

Chị rời quê trong một buổi sáng âm u, bầu trời phủ một lớp mây xám xịt, như níu kéo bước chân người con gái chưa từng đi xa. Tôi đứng bên hiên, ôm cái cặp sách rách dây, thấy lòng nhoi nhói. Từ dạo mẹ mất, chưa khi nào tôi thấy căn nhà mình trống vắng đến vậy.

Những ngày đầu chị ở Sài Gòn, thư gửi về thưa thớt. Chị làm trong một xưởng may công nghiệp, công việc nhiều, tăng ca triền miên. Lương không cao nhưng chị vẫn chắt chiu gửi tiền về mua sách vở cho tôi. Có lần kèm theo cả một bức thư với vài dòng chữ nhòe vì nước mắt:

- “Chị vẫn ổn. Em ở nhà nhớ học cho giỏi. Đừng để cái nghèo níu chân mình mãi”.

Tôi lớn lên theo từng mùa lũ rút, từng lần xe khách ngược xuôi trên quốc lộ bụi mù. Cứ đến đầu năm học, chị lại gửi về một chiếc áo trắng tinh tươm, hay bộ đồng phục vừa khít với dáng người gầy nhẳng của tôi. Có lúc tôi ước giá mà chị ở nhà, chỉ cần cơm rau dưa cũng được. Nhưng rồi lại nghĩ, nếu không có chị, chắc gì tôi được cắp sách đến trường.

Chị Lan có người yêu vào một năm thành phố đón tết sớm, khi mai vàng bắt đầu lấm tấm nụ nơi hiên nhà người ta. Anh là kỹ sư điện lạnh, làm việc gần khu trọ chị ở. Chị kể, giọng thấp mà lặng lẽ như làn khói chiều:

- Ảnh tốt, biết chia sẻ, thương chị thiệt tình.

Lần đầu tôi thấy chị mơ màng như vậy. Mắt chị sáng hơn khi nói về anh, nụ cười cũng hay nở hơn trong những cuộc điện thoại vội vã. Tôi đã thầm mừng, mong chị tìm được một người xứng đáng với những năm tháng chị hy sinh lặng lẽ.

Nhưng mọi chuyện không êm như gió đồng tháng ba. Khi chị báo tin muốn dẫn anh về ra mắt, ba tôi gằn giọng trong điện thoại:

- Đàn bà dưới quê, làm công nhân, đừng mơ trèo cao. Tao không chấp nhận.

Chị cãi, lần đầu tôi nghe tiếng chị gay gắt đến vậy. Rồi điện thoại rơi vào im lặng. Mấy tuần sau, chị về quê một mình, áo quần giản dị, mắt đỏ hoe. Chị nói anh đi công tác nước ngoài. Tôi không tin, nhưng cũng không dám hỏi thêm. Trong ánh chiều xám bạc hôm ấy, chị Lan ngồi bó gối bên bờ mương cạn nước, mắt xa xăm như đang nhìn về một nơi không còn có ai chờ đợi.

* * *

Thời gian trôi như dòng sông mùa cạn, lặng lẽ mà mài mòn dần những góc sắc của ký ức. Tôi thi đậu đại học, giấy báo trúng tuyển về đúng hôm trời đổ cơn mưa đầu mùa. Mưa lấm tấm gõ lên mái tôn cũ kỹ, lanh canh như tiếng mừng rơi vỡ. Chị Lan đứng nơi bếp, tay còn dính bột bánh, vội vã chạy ra đón tôi nơi ngõ, nắm lấy mảnh giấy in tên tôi như nắm lấy một giấc mơ. Nước mắt chị rơi xuống viền chữ mờ nhòe, không hẳn vì xúc động mà vì những tháng năm thầm lặng chị đã bỏ lại sau lưng, giờ như nở hoa trong khoảnh khắc ấy.

Tôi lên Sài Gòn học, thuê trọ gần khu chị làm. Căn phòng nhỏ chật chội nhưng ấm áp, vì luôn có chị kề bên, một người chị vừa là mẹ, vừa là bạn, vừa là ngọn đèn không bao giờ tắt giữa thành phố rộng lớn. Chị làm ở tiệm may áo cưới, công việc đòi hỏi sự tỉ mẩn và đôi mắt tinh tường. Những buổi tối sau giờ tan ca, chị gò lưng đạp xe qua phố đông, mang về cho tôi bịch xôi nóng, chén chè đậu xanh hay đôi khi chỉ là củ khoai lang nướng thơm nức. Chị bảo:

- Em ráng học. Chữ nghĩa là thứ không ai cướp được. Ở thành phố, đừng để bị cuốn theo người ta. Học xong rồi tính tiếp.

Tôi học. Bốn năm đại học trôi qua như một cái chớp mắt. Những mùa thi căng thẳng, những đêm thức trắng bên giáo trình dày cộp, luôn có bóng dáng chị thấp thoáng đâu đó khi là hộp cơm nóng chờ sẵn, khi là tấm lưng gầy đứng tựa cửa nhìn tôi học bài mà không nói gì. Ngày nhận công việc đầu tiên, lương tháng đầu tôi ghé tiệm giày, chọn đôi giày bệt màu hồng đất - kiểu chị hay nhìn nhưng chưa bao giờ mua. Chị cầm đôi giày trên tay, ngập ngừng:

- Đôi dép chị còn mang được... Em giữ mà lo tương lai.

Rồi chị cười, nụ cười mỏng như nắng cuối mùa, nhưng ấm đến lạ.

Chị Lan lấy chồng khi đã ngoài ba mươi. Người đàn ông ấy không phải kỹ sư, không lãng mạn, không hoa hồng mỗi dịp lễ. Anh chỉ là một người thợ mộc, dáng người xuề xòa, tay đầy chai sạn, nhưng ánh mắt thì thành thật và ấm như gỗ gụ lâu năm. Tôi gặp anh lần đầu ở chợ, khi anh đang chở chị trên chiếc xe cà tàng, cẩn thận che nắng cho chị bằng tà áo cũ. Nhìn ánh mắt chị lúc ấy, tôi biết: chị đã tìm được nơi tựa vào.

Đám cưới của chị giản dị như chính con người chị vài mâm cơm dưới rặng xoài sau nhà, vài câu hò giữa trưa lặng gió. Ba tôi cũng về. Ông không nói nhiều, chỉ vỗ vai chị thật chặt, như một lời xin lỗi muộn màng sau bao năm hờ hững. Mẹ chồng chị là người bán bánh chuối chiên ở chợ, giọng sang sảng nhưng tính tình chân thành, thương chị như con ruột.

Giờ chị sống ở quê, căn nhà nhỏ hai gian được cất lên bên mảnh vườn trồng rau và vài bụi chuối. Chị có hai đứa con một trai, một gái đứa nào cũng lanh lợi, sáng sủa. Mỗi lần tôi về, lũ nhỏ ùa ra, ríu rít kể chuyện học, chuyện bạn bè, chuyện mẹ hay nấu món gì ngon. Chị vẫn vậy cười hiền, tay thoăn thoắt nhặt rau, tay kia khum lại lau mồ hôi nơi trán con.

Có hôm trời mưa dầm, tôi và chị ngồi bên hiên, nhìn ra dòng kênh đục màu phù sa. Gió thổi qua rặng bần, rì rào như tiếng thời gian gọi lại. Chị hỏi:

- Ở trên đó em có mệt không? Có nhớ cơm kho quẹt chị nấu không? Tôi cười:

- Nhớ chớ. Nhớ cơm, nhớ chị, nhớ cả tiếng lách cách mưa trên mái tranh. Chị không nói gì thêm, chỉ rót cho tôi ly trà gừng nóng hổi, mắt ánh lên thứ dịu dàng mà cả đời tôi chẳng thể quên.

Tôi ngồi đó, giữa căn nhà nhỏ bên dòng kênh yên ả, nhìn người phụ nữ từng gánh cả tuổi xuân vì tôi - giờ đã bình yên, không cao sang nhưng đủ đầy, không ồn ào nhưng hạnh phúc. Ngoài kia, tiếng chim gọi bầy lẫn trong tiếng cười con trẻ, hòa vào gió, hòa vào lòng tôi một cảm giác dịu dàng khó tả. Trong ánh chiều đang ngả vàng, chị tôi - vẫn như một cánh đồng sau mùa bão, im lìm, giản dị mà kiêu hãnh, và cũng chính là bến bờ bình yên nhất đời tôi.

Truyện ngắn của NGUYỄN VĂN NHẬT THÀNH

Nguồn Phú Yên: https://baophuyen.vn/sang-tac/202506/chi-toi-f3e2c97/
Zalo