Chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt trong chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng cách mạng trong quá trình chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức đúng tầm quan trọng của căn cứ địa đối với thắng lợi của cách mạng: “Muốn khởi nghĩa phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương”. Trong tác phẩm "Chiến thuật du kích", lãnh tụ Hồ Chí Minh cho rằng, đội du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù cần có một vài nơi đứng chân làm cơ sở (căn cứ địa). Tại đó, đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập. Nơi ấy phải có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ. Theo Người, căn cứ địa có vai trò rất quan trọng: “Có chính quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà phát triển lực lượng và hóa ra quân chính quy”.

Đình Hồng Thái (thôn Cả, xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang), nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh dừng chân khi Người từ Pác Bó, Cao Bằng về Tân Trào, Tuyên Quang (tháng 5-1945). Ảnh: THU LÀNH

Đình Hồng Thái (thôn Cả, xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang), nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh dừng chân khi Người từ Pác Bó, Cao Bằng về Tân Trào, Tuyên Quang (tháng 5-1945). Ảnh: THU LÀNH

Nhận thức rõ vai trò chiến lược của căn cứ địa cách mạng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trong những năm 1940-1945, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ đạo lựa chọn các địa bàn chiến lược để tổ chức xây dựng, củng cố, mở rộng các căn cứ địa cách mạng. Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bị thất bại, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-1940) đã quyết định duy trì ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đồng thời bồi dưỡng lực lượng du kích, tiến tới thành lập một đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Đảng ở Bắc Sơn (Đội du kích Bắc Sơn), làm nòng cốt xây dựng LLVT và thành lập căn cứ địa Bắc Sơn-Võ Nhai do Trung ương trực tiếp chỉ đạo, giao cho đồng chí Hoàng Quốc Việt tổ chức thực hiện.

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước, trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Người đã quyết định lựa chọn Cao Bằng để xây dựng thành căn cứ địa cách mạng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc bởi đây là tỉnh miền núi có đường biên giới dài giáp với Trung Quốc, vừa có đường bộ, đường thủy sang Trung Quốc nên rất thuận lợi cho giao thông liên lạc. Từ Cao Bằng, khi lực lượng cách mạng phát triển, cơ sở Việt Minh có thể mở rộng và phát triển nhanh chóng xuống Lạng Sơn, Thái Nguyên, sang Hà Giang, Tuyên Quang... đến các tỉnh vùng trung du, Đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh đó, Cao Bằng còn là nơi có địa thế hiểm trở, thực dân Pháp muốn kiểm soát cũng rất khó. Đặc biệt, Cao Bằng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Lô Lô... có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau và một lòng một dạ đi theo cách mạng, theo Đảng. Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi, Cao Bằng hội tụ đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, đủ điều kiện trở thành một trong những căn cứ địa chiến lược trong thời kỳ khởi nghĩa vũ trang, giải phóng dân tộc.

Cùng với xây dựng căn cứ địa cách mạng, theo chủ trương của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941) và chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, hai chiến khu lớn là Chiến khu Lê Lợi được hình thành cuối năm 1942 và Chiến khu Hoàng Hoa Thám hình thành đầu năm 1943. Trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, chuẩn bị tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, các căn cứ vũ trang ở nhiều địa phương và các chiến khu lần lượt được hình thành. Đặc biệt, ngày 4-6-1945, thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ và tuyên bố chính thức thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 2 căn cứ lớn nằm trên địa bàn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái... Trong Khu giải phóng Việt Bắc, các ủy ban nhân dân do dân cử được thành lập, tổ chức thực hiện “Mười chính sách lớn của Việt Minh”.

Căn cứ địa cách mạng là nơi “ươm mầm” và phát triển của LLVT cách mạng. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân ra đời tại Chiến khu Việt Bắc. Các đơn vị du kích tập trung của tỉnh, huyện cũng đều ra đời ở các căn cứ địa, chiến khu, như: Trung đội Giải phóng quân ở Chiến khu Quang Trung; Du kích cách mạng quân ở Chiến khu Trần Hưng Đạo; hai đại đội Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám ở Chiến khu Vĩnh Sơn-Núi Lớn... Các đơn vị vũ trang đứng chân ở từng căn cứ địa, đặc biệt là Việt Nam Giải phóng quân ở các chiến khu lớn là lực lượng nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.

Căn cứ địa còn là nơi cung cấp lương thực, lực lượng và đùm bọc, che chở cho cơ quan của Đảng ta khi bị địch truy quét. Ở mỗi vùng căn cứ, Đảng ta chỉ đạo tuyên truyền, động viên nhân dân quyên góp, ủng hộ lương thực, các nhu yếu phẩm khác và đưa con em tham gia các đơn vị vũ trang cách mạng. Tại Việt Bắc, khi thành lập Việt Nam Giải phóng quân (ngày 15-5-1945) mới có 13 đại đội, đến tháng 6-1945, các tỉnh đều phát triển lực lượng, riêng Cao Bằng tổ chức được 20 đại đội.

Sự tồn tại của các căn cứ địa là nỗi lo và mối nguy hiểm lớn đối với địch. Vì thế, khi phát hiện căn cứ địa cách mạng, địch tập trung càn quét, triệt phá. Tuy nhiên, LLVT của ta kiên quyết đánh chặn, bẻ gãy các đợt tiến công của địch. Điển hình, ở Việt Bắc, các đơn vị giải phóng quân anh dũng chiến đấu, bẻ gãy 3 mũi tiến công của 2.000 tên địch (cuối tháng 5-1945), bảo vệ vững chắc khu giải phóng, duy trì và phát triển lực lượng chủ lực của ta. Đồng thời, nắm bắt và chủ động tận dụng thời cơ, Đảng ta chỉ đạo các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân xuất phát từ các khu căn cứ, phối hợp với du kích làm nòng cốt cho nhân dân các địa phương khởi nghĩa từng phần. LLVT ta tổ chức nhiều trận đánh và giành thắng lợi, góp phần đẩy mạnh cao trào khởi nghĩa từng phần trong cả nước.

Trước việc Nhật đầu hàng phe đồng minh, thời cơ “ngàn năm có một” xuất hiện, Đảng ta và Mặt trận Việt Minh đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ tay phát xít Nhật. Ngay sau đó, LLVT-nòng cốt là Việt Nam Giải phóng quân-xuất phát từ các chiến khu, căn cứ địa cách mạng tiến về các tỉnh lỵ, huyện lỵ, nơi đặt trung tâm đầu não của kẻ thù, cùng với lực lượng chính trị và quần chúng nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Bằng các đòn tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng, tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã giành thắng lợi vẻ vang trên phạm vi cả nước.

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng Viện Chiến lược và Lịch sử quốc phòng Việt Nam

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/80-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9/chi-dao-xay-dung-can-cu-dia-cach-mang-842623
Zalo