CHÀO MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM (20-11) Nhân 655 năm ngày mất của Vạn thế sư biểu CHU VĂN AN (1370-2025): Tiều Ẩn về với núi Phượng Hoàng
Chu Văn An húy là Chu An, tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Văn Xá, Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông). Theo Thần phả, Chu Văn An sinh ngày 15-8 năm Nhâm Thìn 1292, mất ngày 25-11 năm Canh Tuất 1370(1). Ông là một trong những người Việt Nam được UNESCO vinh danh và cùng kỷ niệm năm sinh/ năm mất Danh nhân Việt Nam(2), đặc biệt, ông được người đời tôn vinh là 'Vạn thế sư biểu' (danh xưng này có Khổng Tử, người nước Lỗ, Trung Hoa).

Tượng thờ Chu Văn An tại Văn miếu Quốc Tử Giám.
Tạo nguồn nguyên khí quốc gia
Thời Trần ngày ấy chỉ có trường do triều đình mở để cho các con vua, quan và tôn thất theo học, nhưng Chu Văn An đã tự lập trường, dạy cho tất cả mọi người, vì theo ông, “chưa thấy nước nào không coi trọng sự học mà có thể tiến lên được”. Ngay đầu làng Huỳnh Cung, ông dựng nhà học trên gò cao đọc sách và dạy học trò. Người học theo đến đây khá đông(3). Ý giả đạo học của ông là “lấy đạo Khổng, Mạnh làm gốc”. Ông là một trong những người đầu tiên truyền đạo Nho của Khổng Tử đó là “Hữu giáo vô loại” tức là nền giáo dục đi tới muôn dân. Theo ông, “Học mới chỉ là mắt, hành mới có chân. Có mắt, có chân mới tiến được, có biết mới làm được, có làm mới biết”. Và ông dạy cho học trò làm người chứ không phải chỉ dạy cho học trò làm quan. Mặc dù thế, học trò của Chu Văn An nhiều người đã đỗ đạt cao vẫn giữ được đức thanh liêm và giữ trọng trách lớn trong triều như: Lê Quát, Phạm Sư Mạnh.
Tiếng lành đồn xa, nên vua Trần Minh Tông (1315-1329) mời ông làm Tư Nghiệp dạy học cho thái tử. Tư nghiệp quốc tử giám Chu Văn An đã viết Tứ thư thuyết ước tóm tắt 4 bộ sách lớn là Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học và Trung dung làm giáo trình dạy học. Quốc tử giám lúc đầu dành cho con vua, quan học, sau mở rộng cho những người tài trong nhân dân theo học.
Đức độ người thầy
Chu Văn An tính cương giới (cứng như sắt, bền như đá), sửa mình thanh đạm, giữ tính chịu khổ, chẳng cầu cạnh lợi lộc, tiền đạt mà ở nhà đọc sách. Có sử sách chép ông đỗ tiến sĩ, còn Thần tích ghi chép năm ông 12 tuổi thi thái học sinh, năm 16 tuổi vào Đình Thí, năm 24 tuổi làm giám quan, nhưng ngược lại, trong Nam ông mộng lục của Lê Trừng (tức Hồ Nguyên Trừng) thì viết ông điềm đạm, ít lòng thị dục, chẳng tới ứng cử bao giờ.
Chu Văn An nêu 4 điểm: cùng lý, chính tâm, tịch tà, cự bí (bàn cãi cho biết lý lẽ của sự vật/giữ lòng mình cho chính/chống tà thuyết/vượt qua khó khăn chống lại những việc làm hại nhân dân) để dạy học trò.
Phạm Sư Mạnh (thời Trần Dụ Tông làm quan đến chức Hành Khiển Tả ty Lang trung) khi về thăm thầy gặp lúc đông người, lính hầu thét nạt dân chúng để dọn đường đi. Chuyện đến tai Chu Văn An, khi Phạm Sư Mạnh đến, Chu Văn An mắng “về thăm thầy mà làm náo động cả bàn dân thiên hạ, thì ta còn mặt mũi nào mà ngẩng đầu lên nhìn mọi người”. Nói rồi, thầy phủi áo đi vào nhà trong. Phạm Sư Mạnh vừa sợ vừa ân hận, cứ quỳ gối bên giường chờ thầy tha lỗi, rồi mới dám về.
Tương truyền, người học trò thủy thần nghe tiếng Chu Văn An nên đến theo học. Năm ấy, trời khô hạn, dân tình khốn khổ, Chu Văn An nhờ học trò làm mưa giúp dân. Vì cảm phục đức độ của thầy, dù biết rằng trái mệnh trời thế nào cũng phải chết, nhưng người trò thủy thần vẫn tạo mưa cứu dân.
Sử sách lưu truyền, dân chúng luôn ghi nhớ, đó là tiết tháo của người thầy. Đại Việt sử ký toàn thư viết: Khi thấy học trò là Trần Dụ Tông mê chơi, không lo chính sự để cho gian thần nhũng loạn, Chu Văn An dâng sớ xin vua chém 7 tên nịnh thần đều là kẻ quyền thế, vua yêu. Vua Trần Dụ Tông không chuẩn tấu, Chu Văn An treo mũ từ quan, về quê dạy học. Sau đó, Trần Dụ Tông cho mời ra làm quan, Chu Văn An từ chối. Thái hoàng Thái hậu Hiển Từ cho rằng: “Người ấy là người không bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được họ?”. Vua ban y phục, Chu Văn An lạy tạ, rồi đem tất cả cho người khác. Người trong nước cho là bậc cao thượng. Nói về sớ chém 7 tên nịnh thần, Lê Tung trong Việt giám thông khảo tổng luận thì hạ bút ca tụng bài “Thất trảm sớ” là “Thất trảm chi sớ, nghĩa động càn khôn” (bài sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nghĩa khí động tới trời đất)(4).
Sống mãi trong dân
Chu Văn An về quê, sống ở “ngọn núi giữa có hai bên như cánh phượng, trong có động, dưới có giếng sâu, bên có ao rùa “Kiệt Đặc Sơn thanh nhàn hữu thạch, tả có hào phong, hữu thế ngoại chi cảnh” (An Nam chí), tiêu dao tự tại; “Thân dữ cô vân trường luyến tụ [dự]/Tâm đồng cổ tĩnh tại sinh lan”(5) (Người với chòm mây đơn lẻ vẫn nhớ tới núi xanh, Lòng cũng giống như giếng cổ nước không còn sóng nữa) thành một ông tiều ở ẩn.
Khi ông mất, vua Trần Nghệ Tông sai quan đến tế và ban thụy “Văn Trinh” cùng hiệu Khang Tiết, tước Công, sau đó tòng tự tại Văn miếu.
Theo nhà văn, quan lại thời Nguyễn, Ngô Thế Vinh thì “Văn Trinh có nghĩa là: Văn, đức chi biểu dã, Trinh, đức chi chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất) của đức, Trinh là tính chính trực, kiên định của đức, tức là bên ngoài thuần nhã, hiền hòa, với bên trong chính trực, kiên định”(6). Còn “thụy hiệu là danh hiệu ban tặng cho các vị vua chúa, quan lại, đại thần, hậu phi và các nhân vật quan trọng khác trong lịch sử Trung Quốc cổ đại sau khi họ qua đời. Thụy hiệu không chỉ là một cái tên đơn thuần mà còn là sự đánh giá tổng thể về cuộc đời công trạng và đức hạnh của người được phong tặng”(7). Đây là việc làm hiếm có thời đó. Hiện Viện Viễn Đông Bác cổ (Pháp) còn bảo tồn 4 bia (thời Cảnh Hưng, Giáp Thìn năm 1784) ghi công trạng Chu Văn An như sau:
Nam quốc nho tôn huyền Bắc Đẩu
Đông A tiều ẩn ngưỡng cao sơn(8).
Sử quan Ngô Sỹ Liên có bình phẩm: “…Thờ vua tất phải nói thẳng trước mặt, việc xuất hay xử tất phải có lẽ phải, rèn đúc nhân tài thì công khanh đều là học trò của mình; cao thượng tiết tháo thì thiên tử không bắt nổi làm tôi. Huống chi nét mặt nghiêm nghị mà đạo làm thầy được tôn, lời nói lẫm liệt mà kẻ nịnh phải sợ. Người sau ngàn năm nghe phong thái của ông, há kẻ điêu ngoa không thành liêm chính, mà kẻ hèn nhát không tự lập sao? Nếu không xét duyên cớ thì ai biết thụy hiệu là xứng đáng! Đáng là bậc tôn sư của nhà nho nước Việt ta mà được thờ ở Văn Miếu”(9).
Tiều Ẩn đã về với núi Phượng Hoàng, nhưng tên ông vẫn sống mãi trong lòng dân Việt ở từng con đường, góc phố, từng mái trường… khắp cả nước.
Nguyễn Sơn Hùng
(1) Tri tân nhân vật chí tập chú, Nguyễn Phúc An biên soạn và chú thích, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2023 - Vietnamnet.vn, Chu Văn An: Thầy giáo có đức nghiệp mẫu mực của muôn đời, Bùi Hoa, 21-12-2021.
(2) Trang Thông tin Đối ngoại - BCĐ Công tác Thông tin Đối ngoại - nguồn VietnamPlus.vn, 7 danh nhân của Việt Nam được Tổ chức UNESCO vinh danh, 22-11-2023; và Thông tấn xã Việt Nam, UNESCO thông qua Nghị quyết vinh danh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn, 31-10-2025.
(3) Tri tân nhân vật chí tập chú, Nguyễn Phúc An biên soạn và chú thích, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2023.
(4) Chu Văn An (1292-1370): Con người và thời đại, Nguyễn Duy Chính, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5 (159), năm 2020.
(5) Tri tân nhân vật chí tập chú, Nguyễn Phúc An biên soạn và chú thích, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2023.
(6) Phật giáo Bạc Liêu, Chu Văn An - Người thầy mẫu mực, 1-1-2024.
(7) Vantuanle.com “Thụy hiệu trong lịch sử Trung Quốc cổ đại: Ý nghĩa, cách sử dụng và tầm quan trọng văn hóa, 7-10-2024.
(8) Tri tân nhân vật chí tập chú, Nguyễn Phúc An biên soạn và chú thích, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2023.
(9) Đại Việt sử ký toàn thư, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Hồng Đức, 2025, trang 497.































