Cần sớm thể chế hóa để Nghị quyết 71 thực sự đi vào cuộc sống

Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt ra mục tiêu rất cao với rất nhiều giải pháp chưa từng có, nhưng làm thế nào để từ quyết sách của Đảng đi vào thực tiễn?

Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt ra mục tiêu rất cao với rất nhiều giải pháp nhằm đưa giáo dục đưa giáo dục Việt Nam bứt phá vươn tầm quốc tế, đáp ứng các yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tuy nhiên, làm thế nào để chủ trương của Đảng được thực thi trong thực tiễn là vấn đề được đặt ra. Phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư nhà nước, nguyên Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế quốc dân về vấn đề này.

Mục tiêu rất cao nhưng khả thi

- Thưa ông, Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn của giáo dục Việt Nam hiện nay, đưa giáo dục bứt phá, đáp ứng các yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Theo ông, đâu là những điểm nghẽn của giáo dục Việt Nam hiện nay và những điểm nghẽn đó đã được tháo gỡ như thế nào trong Nghị quyết 71?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Những điểm nghẽn lớn của giáo dục Việt Nam hiện nay là sự không đồng bộ giữa mong muốn về giáo dục với các nguồn lực đầu tư cho giáo dục chưa thỏa đáng; sự không đáp ứng giữa trình độ, năng lực cung cấp kiến thức và phương pháp giảng dạy của giáo viên với mong muốn, thái độ học tập của người học; sự ràng buộc giữa cơ chế quản lý giáo dục với mong muốn phát huy tính năng động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục và đào tạo.

Đó là những nút thắt tạo ra những điểm nghẽn, kìm chế sự phát triển của giáo dục thời gian qua. Nghị quyết 71 đã đưa ra các giải pháp đột phá cho các vấn đề này.

 Giáo sư Hoàng Văn Cường trao đổi với phóng viên VietnamPlus. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Giáo sư Hoàng Văn Cường trao đổi với phóng viên VietnamPlus. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Điểm đột phá rõ nhất, cốt lõi, bao trùm nhất chính là đột phá tư duy, nhận thức về giáo dục đào tạo, từ đó thúc đẩy sang đột phá về thể chế, quản lý, đưa ra hành động và chính sách.

Nghị quyết chỉ rõ giáo dục không chỉ là quốc sách hàng đầu mà còn quyết định tương lai của dân tộc. Chính từ nhận thức mạnh mẽ đó đã đổi mới tư duy quản lý để thay đổi cơ bản về cơ chế, chính sách đầu tư cho phát triển giáo dục, đầu tư phát triển cho con người, ở đây là giáo viên và đối tượng trọng tâm là người học.

Và chính những điều đó đã tạo nên những tiền đề, nguồn lực, điều kiện cho sự phát triển đột phá cho giáo dục trong tương lai khi Nghị quyết 71 này được phát triển khai thực hiện.

Trước đây, chúng ta chỉ mong muốn vai trò quan trọng của giáo dục đào tạo nhưng không có hành động kèm theo, không có thể chế cởi mở, phù hợp với vai trò đó.

- Nghị quyết đặt ra các mục tiêu rất lớn như đến năm 2030, Việt Nam có nền giáo dục tiên tiến trong khu vực châu Á, có 8 đại học lọt tốp 200 châu Á. Năm 2045, Việt Nam là một trong 20 nền giáo dục tốt nhất thế giới, có ít nhất 5 cơ sở giáo dục lọt tốp 100 thế giới về một số lĩnh vực. Ông đánh giá như thế nào về các mục tiêu này?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Tôi đánh giá cao mục tiêu của Nghị quyết khi có những con số rất cụ thể. Chỉ khi có các con số cụ thể thì chúng ta mới có chương trình hành động cụ thể để đạt đến mục tiêu cũng như có các tiêu chí để giám sát, đánh giá quá trình thực hiện đạt được đến đâu so với mục tiêu đề ra.

Tôi đánh giá cao mục tiêu của Nghị quyết khi có những con số rất cụ thể. Chỉ khi có các con số cụ thể thì chúng ta mới có chương trình hành động cụ thể để đạt đến mục tiêu...

Giáo sư Hoàng Văn Cường

Mục tiêu Nghị quyết đặt ra là rất cao. Mục tiêu này nhất quán với quan điểm giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách hàng đầu mà còn quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc. Chúng ta hướng đến một quốc gia có trình độ phát triển cao, văn minh thì rõ ràng yếu tố giáo dục đào tạo phải đặt mục tiêu cao.

Các mục tiêu này cũng hướng rất rõ đến mục tiêu tháo gỡ các điểm nghẽn, các nút thắt cho sự phát triển của đất nước. Trước hết, đó là điểm nghẽn về nguồn nhân lực chất lượng cao và đột phá của Đảng là đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nghị quyết đặt ra vấn đề đào tạo nhân lực, đưa ra các chỉ số như 8 trường lọt 200 châu Á năm 2030, ít nhất 5 trường lọt tốp 100 thế giới vào năm 2045… Điều đó đòi hỏi hệ thống giáo dục đại học phải nâng chuẩn ở mức cao mới đạt mục tiêu trên.

Chúng ta cũng đang đặt mục tiêu đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, điều này phải dựa vào lực lượng của những người có trình độ, đó là các cơ sở giáo dục đại học. Nếu giáo dục đại học không đạt được các mục tiêu đề ra thì làm sao tạo được nòng cốt về đổi mới công nghệ quốc gia?

Chúng ta muốn phát triển căn bản, phát triển cao về con người thì phải dựa trên nền tảng căn bản là nền giáo dục hiện đại. Vì vậy, mục tiêu tốp 20 là một mục tiêu rất đúng, rất tương thích, tương đồng với mục tiêu phát triển quốc gia.

Giáo sư Hoàng Văn Cường

Chúng ta đặt mục tiêu đến 2045 phải lọt tốp 20 nền giáo dục tiên tiến hiện đại nhất thế giới, chỉ số HDI đạt từ 0,85 trở lên. Điều này tương thích với mục tiêu phát triển của đất nước: đến 2045 là nước phát triển cao, lấy con người vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển. Chúng ta muốn phát triển căn bản, phát triển cao về con người thì phải dựa trên nền tảng căn bản là nền giáo dục hiện đại. Vì vậy, mục tiêu tốp 20 là một mục tiêu rất đúng, rất tương thích, tương đồng với mục tiêu phát triển quốc gia.

Và các mục tiêu này đặt ra không phải không có căn cứ, cơ sở.

Theo bảng xếp hạng đại học của QS, chúng ta có 4 đại học lọt tốp 200 châu Á. Theo xếp hạng kết quả PISA thì Việt Nam đứng thứ 34 của thế giới và đứng thứ hai của khu vực ASEAN. Đó là những cơ sở tiền đề rất quan trọng để thấy rằng những mục tiêu này cao nhưng với sự nỗ lực, giải pháp quyết liệt như Nghị quyết 71 thì chúng ta hoàn toàn có thể đạt được. Và đó cũng là cơ sở để chúng ta đạt mục tiêu là một quốc gia hùng cường, thịnh vượng và hạnh phúc.

Đưa vào tiêu chí đánh giá hàng năm

- Một trong những giải pháp quyết liệt của Nghị quyết 71 đột phá trong đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là cơ chế chính sách cho nhà giáo. Theo ông, những chính sách này sẽ có ý nghĩa như thế nào trong thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Chúng ta có câu tục ngữ “có thực mới vực được đạo,” mong muốn một nền giáo dục phát triển thì phải có nguồn lực đầu tư toàn diện cho hệ thống giáo dục, từ cơ sở vật chất kỹ thuật đến cỗ máy cái là đội ngũ giáo viên, nhà quản lý và điều kiện học tập của đối tượng trọng tâm là người học.

Nghị quyết đã đưa ra các chính sách rất cụ thể, không chỉ dừng lại ở mức tối thiểu 20% của ngân sách mà chỉ rõ là chế độ phụ cấp dành cho giáo viên tối thiểu 70% trở lên, nhân viên từ 30% trở lên và những vùng khó khăn là 100% để tạo các điều kiện tốt nhất cho người thầy toàn tâm, toàn ý cống hiến cho giáo dục đào tạo. Đó là điều rất căn bản để tạo ra đột phá chất lượng.

Chúng ta cũng đưa ra những chính sách để thu hút những người giỏi từ bên ngoài vào tham gia giáo dục đào tạo như cơ chế vượt trội để các nhà khoa học quốc tế, hay cơ chế rất mới là giảng viên đồng cơ hữu để những người có năng lực, trình độ ở khu vực hành chính có thể tham gia vào đào tạo như một giảng viên chính thức.

 Việt Nam đặt mục tiêu vươn tầm thế giới về giáo dục. (Ảnh: NTCC)

Việt Nam đặt mục tiêu vươn tầm thế giới về giáo dục. (Ảnh: NTCC)

Nghị quyết cũng quy định phải chi tối thiểu 5% ngân sách cho đầu tư cơ bản, tối thiểu 3% cho giáo dục đại học. Điều này thể hiện sự quyết tâm phải tạo ra một hệ thống cơ sở vật chất đủ hiện đại để đáp ứng nhu cầu cho người học và phát triển giáo dục đại học ở tầm cao mới.

- Trên thực tế, chi tối thiểu 20% ngân sách cho giáo dục và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước nhiều năm qua nhưng chưa năm nào đạt con số này. Chi chủ yếu cho tiền lương, chi cho đầu tư rất ít. Theo ông, làm thế nào để những yêu cầu của Nghị quyết 71 về chi cho giáo dục thực sự được thực thi?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Đây là một thực tế. Chúng ta đã có chủ trương nhưng thực thi không hiệu quả.

Để giải quyết vấn đề này, cần phải thể chế độ hóa các mục tiêu này trong các luật pháp và các chương trình hành động cụ thể. Nghị quyết cũng yêu cầu phải sửa đổi các yếu tố liên quan đến đầu tư phát triển, trong đó có vấn đề đầu tư cho giáo dục đào tạo, sửa đổi về các chương trình mục tiêu như sẽ xây dựng chương mục tiêu quốc gia về về phát triển nguồn nhân lực.

Việc thực thi các chính sách, quy định pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào người quản lý tại địa phương. Nếu chúng ta đưa vào các chương trình hành động, đưa vào các chương trình phân bổ ngân sách, đưa vào các tiêu chí đánh giá hàng năm của địa phương thì sẽ thực hiện được mục tiêu chung đề ra.

Bên cạnh đó, cần phải phát huy năng lượng nội tại của bản thân các cơ sở giáo dục đào tạo, của mỗi người tham gia vào quá trình đào tạo, không phải chỉ chờ vào nguồn ngân sách nhà nước.

 Học sinh Lào Cai trong phòng học tạm. (Ảnh: Phạm Mai/Vietnam+)

Học sinh Lào Cai trong phòng học tạm. (Ảnh: Phạm Mai/Vietnam+)

Nhà nước tập trung nguồn lực đầu tư nhưng nguồn lực Nhà nước chỉ đóng vài trò mồi, phải huy động sự đầu tư, đóng góp của toàn xã hội. Với truyền thống hiếu học, người Việt Nam luôn sẵn sàng đầu tư cho tương lai, và chính vì vậy, nếu thu hút nguồn năng lực tư nhân thì nguồn lực đầu tư cho giáo dục thời gian tới sẽ lớn hơn nữa.

Thể chế hóa để tránh tiêu cực trong thu hút nguồn lực xã hội

- Theo ông, các cơ chế về việc huy động nguồn lực xã hội trong Nghị quyết 71 có đủ để thu hút được nguồn lực này?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Nghị quyết chỉ ra Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong phát triển giáo dục nhưng vẫn cần huy động nguồn lực xã hội để giáo dục phát triển.

Tôi đánh giá rất cao khi Nghị quyết 71 đã đưa ra những giải pháp rất cụ thể để thu hút nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục. Cụ thể như quy định không thu thuế đối với cơ sở giáo dục công lập và cơ sở tư thục không vì lợi nhuận. Điều đó khẳng định rất rõ mục tiêu phát triển nền giáo dục của nước ta không phải để kinh doanh mà để phát triển con người.

Vấn đề quan trọng là phải có một cơ chế rõ ràng để tránh tình trạng lạm dụng quan điểm về xã hội hóa để làm lệch lạc vấn đề huy động nguồn lực, tạo nên tiêu cực. Các cơ chế đó phải được thể chế hóa chứ không thể để cho từng cá nhân, từng nhà trường tự thỏa thuận, vì rất dễ bị biến tướng và dễ bị nhìn nhận sai lầm.

 Giờ học của cô và trò trường Nguyễn Siêu, một trong các trường tư ở Hà Nội. (Ảnh: NTCC)

Giờ học của cô và trò trường Nguyễn Siêu, một trong các trường tư ở Hà Nội. (Ảnh: NTCC)

Nếu có một cơ chế tốt, rõ ràng thì việc đóng góp đầu tư của xã hội, gia đình, cá nhân người học để cùng tạo ra một môi trường học tập tốt nhất, để giúp cho các thế hệ người học được tiếp cận các tri thức, điều kiện nghiên cứu, học tập cao là điều cả xã hội mong muốn và sẽ tác động rất tốt cho thế hệ tương lai. Môi trường học tập tốt không chỉ là chỗ để các em đến để nghe giảng mà thực sự phải là nơi để các em được trải nghiệm, được thỏa mãn tất cả các khả năng về sáng tạo. Điều đó đòi hỏi nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất.

- Với mục tiêu xây dựng tương lai cho thế hệ vươn mình, Nghị quyết yêu cầu tăng cường giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ, xây dựng và cụ thể hóa hệ giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới, tích hợp xuyên suốt trong chương trình giáo dục ở tất cả các cấp học. Theo ông, hệ giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới cần những yếu tố nào?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Các giải pháp mà Nghị quyết đề ra đều hướng đến sự phát triển tự do, toàn diện của người học về thể chất, văn hóa, tinh thần, năng lực, tri thức và luôn luôn hướng đến tiếp cận ở những điểm cao nhất, tiên tiến nhất của thời đại để thực hiện mục tiêu con người là trung tâm, là mục tiêu, đối tượng của phát triển. Thành quả đạt được là phải tạo ra một hệ giá trị mới của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Thành quả đạt được là phải tạo ra một hệ giá trị mới của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.

Giáo sư Hoàng Văn Cường

Hệ giá trị thường được quan niệm là tiêu chuẩn của con người về nhận thức, hành vi, năng lực tương tác xã hội. Tôi cho rằng hệ giá trị của con người trong thời đại mới phải là sự kết hợp hài hòa giữa những hệ giá trị mang tính truyền thống của con người Việt Nam cộng với những hệ giá trị của xã hội hiện đại.

Hệ giá trị đó có thể thể hiện thông qua các tiêu chí: trước hết phải phát huy truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc của con người Việt Nam; phải có tính đoàn kết, kỷ cương, kỷ luật để tạo ra xã hội đồng thuận và phát triển; phải là một con người có tính tự lực, tự cường, tự hào để phát triển vươn lên; và phải là con người có năng lực, có trình độ cao để đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.

Cần thay đổi đồng bộ về nhận thức

- Có thể nói Nghị quyết 71 đã có rất nhiều giải pháp đột phá mang tính bao trùm để tạo động lực cho phát triển giáo dục. Tuy nhiên, từ chủ trương của Đảng đến thực tiễn là một khoảng cách lớn. Theo ông, làm thế nào để các quyết sách này được triển khai?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Để Nghị quyết đi vào thực tế cuộc sống thì điều đầu tiên là phải thể chế hóa các mục tiêu, giải pháp của Nghị quyết thành quy định của pháp luật, của cơ quan quản lý để mọi người đều hành động theo đúng Nghị quyết. Cần có tiêu chí đánh giá hàng năm theo các mục tiêu đặt ra vốn đã rất cụ thể cho từng cấp, từng ngành. Khi có sự đồng bộ như thế thì mới tạo ra hiệu quả thực sự.

Tôi cho rằng điều điều quan trọng nhất là phải thay đổi nhận thức, tư duy của cả xã hội, từ những nhà quản lý, đội ngũ giáo viên, người học, gia đình và xã hội về vai trò quyết định tương lai đất nước của giáo dục. Điều này sẽ tạo ra sự cộng hưởng thuận chiều cho phát triển giáo dục.

 Để giáo dục Việt Nam phát triển cần sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của giáo dục. Trong ảnh, Trường Trung học phổ thông Trương Định (Hà Nội) giáo dục học sinh thông qua lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh. (Ảnh: NTCC)

Để giáo dục Việt Nam phát triển cần sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của giáo dục. Trong ảnh, Trường Trung học phổ thông Trương Định (Hà Nội) giáo dục học sinh thông qua lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh. (Ảnh: NTCC)

Tuy nhiên, thay đổi nhận thức cũng là điều khó khăn nhất, là rào cản lớn nhất của giáo dục hiện nay. Chúng ta thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đã hết một chu trình đổi mới nhưng xã hội vẫn quan tâm đến học sinh đạt bao nhiêu điểm, có được xuất sắc không thay vì các em học được gì, hiểu thêm được điều gì. Người học mong được điểm cao, người dạy cũng hướng vào tiêu chí đó, giáo dục chạy theo điểm số, bằng cấp chứ không phải theo năng lực.

Giáo dục phải khai phóng, tạo ra năng lực để người học có khả năng tự ra quyết định, khi đó mới tạo hứng thú cho trẻ em đến trường và hướng đến năng lực thực sự, học được những gì thực chất.

- Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có hàng loạt chính sách đặc biệt ưu việt cho giáo dục, như miễn học phí cho học sinh cả nước, triển khai dạy học 2 buổi/ngày ở bậc trung học cơ sở, hỗ trợ ăn trưa cho học sinh vùng khó khăn… và mới đây nhất là Nghị quyết 71. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho hay ngành giáo dục đang đứng trước cơ hội chưa từng có. Theo ông, ngành giáo dục cần làm gì để tận dụng cơ hội này?

Giáo sư Hoàng Văn Cường: Đây đúng là thời cơ vàng khi mà các cấp lãnh đạo cao nhất đã nhìn nhận rất rõ sứ mệnh, vai trò của giáo dục đào tạo gắn với tương lai của cả dân tộc, nhìn thấy sự phát triển đột phá của đất nước phải dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao, dựa vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Với ngành giáo dục, đây là cơ hội phát triển nhưng cũng là trọng trách, sứ mệnh phải hành động. Chúng ta cũng đã có những giải pháp rất cụ thể là các nguồn lực, thể hiện rất rõ qua chính sách ưu tiên, tập trung đầu tư cho giáo dục. Chúng ta cũng đặt ra các mục tiêu rất cụ thể. Và vì thế phải có hành động thật quyết liệt. Phải thể chế hóa, biến nghị quyết từ đường lối, chỉ đạo thành công cụ luật pháp, công cụ giám sát đối với phát triển giáo dục đào tạo.

Ngành giáo dục cần phải thay đổi tư duy và hành động cho tất cả những người liên quan đến giáo dục đào tạo, trước hết là những người quản lý. Người quản lý phải tiên phong, phải chớp được cơ hội này, nhận thức được vai trò mình phải làm gì.

Nhân tố quan trọng tiếp theo là những người thầy – những “cỗ máy cái” của ngành. Người thầy phải thay đổi từ nhận thức, tư duy, hành động, nếu không đổi mới phải bị đào thải.

Người học – trung tâm của giáo dục cũng phải thay đổi về thái độ, mục tiêu, động lực học tập. Và đương nhiên, gia đình, xã hội cũng phải thay đổi từ nhận thức đến hành động.

Chỉ khi nào có sự thay đổi đồng bộ thì mới có thể đạt được mục tiêu Nghị quyết đề ra./.

- Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/can-som-the-che-hoa-de-nghi-quyet-71-thuc-su-di-vao-cuoc-song-post1060018.vnp
Zalo