Cần định hướng một xã hội học tập của tương lai

Một xã hội học tập của tương lai là xã hội, ở đó học là một nhu cầu tự thân, tự nguyện, học không vì bằng cấp, không cần được cấp bằng, chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên chia sẻ.

Nghị quyết số 71-NQ/TW ra đời trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo (AI) đang thách thức những quan niệm và cách thức hành động truyền thống, đồng thời “nối dài” thêm cho những giới hạn của con người, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục. Nghị quyết cũng ý thức được thực trạng “tâm lý trọng danh vị trong xã hội còn nặng nề, chính sách sử dụng cán bộ còn coi trọng bằng cấp hơn thực lực”.

 Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Tuyển dụng chỉ dựa vào bằng cấp có tác hại không kém “chủ nghĩa lý lịch”

Bấy lâu nay “chủ nghĩa bằng cấp” phát triển tới mức cực đoan ở Việt Nam, để lại những hậu quả lớn trong việc sắp xếp không đúng và kém hiệu quả giữa năng lực con người và tính chất công việc. Mâu thuẫn là, trong khi niềm tin vào bằng cấp ngày càng giảm sút, thì việc sử dụng lao động lại vẫn tập trung vào bằng cấp hơn là năng lực thực sự của một người lao động. Điều này đi ngược lại với nguyên tắc của thị trường lao động, nơi sàng lọc “thật – giả” của tấm bằng từ trường học và năng lực của cá nhân.

Tuyển dụng chỉ dựa vào bằng cấp cũng tạo ra một sự “phân biệt đối xử” có tác hại không kém “chủ nghĩa lý lịch” vốn đã từng thịnh hành trước đây: coi trọng lý lịch, tiểu sử cá nhân cao hơn thực lực, thực tài. Xã hội đã rất quen với những tiến sĩ không làm nghiên cứu mà chỉ làm quản lý, hay với niềm tin dai dẳng vào giá trị của những tấm bằng từ các trường nổi tiếng hơn là thành tựu cụ thể, kết quả sáng tạo thực tế trong quá trình lao động.

Một nền giáo dục tập trung vào “biết nhiều” hơn là “hiểu và thực hành”, tức là coi trọng học rộng hơn học sâu, càng lúc càng hụt hơi trước sự bùng nổ của tri thức. Hiện nay chỉ cần 12 giờ để tri thức nhân loại tăng lên gấp đôi, và với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, khối lượng tri thức toàn cầu còn tăng theo cấp số nhân nhanh hơn nữa, việc know – what (biết nhiều) đã mất dần vị thế trước know – how (hiểu nguyên tắc) các vấn đề. Do vậy việc học mang tính “phổ biến tri thức” sẽ buộc phải thay đổi.

Học nhiều có phải là hiếu học?

Nghị quyết 71 cũng xác định “Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, xây dựng xã hội học tập, khơi dậy mạnh mẽ các phong trào thi đua trong Nhân dân và trong toàn xã hội về học tập, tự học tập, học tập không ngừng, học tập suốt đời vì sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì tương lai của dân tộc”.

Chúng ta thường nghe nói và tự nhận là một dân tộc hiếu học. Điều này có thể thấy được qua mức độ quan tâm và tập trung đầu tư thời gian, công sức, tiền bạc cho giáo dục, cho việc học của thế hệ tiếp theo trong mỗi gia đình.

Tuy nhiên, “thế nào là hiếu học?” cũng là câu hỏi quan trọng cần đặt ra. Học nhiều có phải là hiếu học? Sở hữu nhiều bằng cấp có phải là hiếu học? Việc các công chức quản lý không nghiên cứu theo đuổi học lấy bằng tiến sĩ mà không có sản phẩm trí tuệ hay sản phẩm sáng tạo, phát minh, sáng chế, công bố khoa học có giá trị… có phải là hiếu học hay chỉ là một dạng tâm lý “sính bằng cấp” kéo dài từ thời phong kiến trọng khoa cử?

Một câu hỏi quan trọng để phân biệt “hiếu học thật” và “hiếu học giả” là: “Nếu người học hiện nay ở Việt Nam đi học mà không được cấp bằng, bao nhiêu trong số họ sẽ tiếp tục học?”. Những hình thức “học không bằng cấp” bao gồm tự học, học tại nơi làm việc, đọc sách… luôn là phép thử với tinh thần “hiếu học” thay cho lựa chọn học vì bằng cấp. Vì sao một cộng đồng tự cho là hiếu học mà mức độ đọc sách lại rất thấp? Người dân đọc báo mạng chứ ít đọc sách, sinh viên đọc nhiều trên mạng chứ không phải sách chuyên ngành tại thư viện, các tiến sĩ khó khăn khi đọc tạp chí nghiên cứu chuyên ngành bằng ngoại ngữ…

Một nguồn dẫn cho biết tỷ lệ đọc sách ở Việt Nam thấp, với trung bình 4 cuốn/năm nhưng đa số là sách giáo khoa (2,8 cuốn/năm), do đó, lượng sách thực sự để đọc bổ sung kiến thức chỉ khoảng 1,2 cuốn/năm. Chỉ khoảng 30% người Việt đọc sách thường xuyên, trong khi 26% không đọc và 44% đọc không thường xuyên.

Dưới tác động của trí tuệ nhân tạo, những hình thức học vì bằng cấp, học rộng để biết chứ không học sâu để làm sẽ nhanh chóng trở nên bộc lộ sự vô ích với sự phát triển của xã hội.

cần dự báo trước sự thay đổi mạnh mẽ về cách thức học tập

Nghị quyết cũng đưa ra mục tiêu như “Phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín” vào năm 2030 và “Phấn đấu ít nhất 2 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín” vào năm 2035.

Tầm nhìn cho năm 2045 là “Phấn đấu ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín”.

Việc đưa ra các mục tiêu cụ thể cho nền giáo dục là rất quan trọng, nhưng cũng sẽ cần tính tới sự thay đổi rất lớn của giáo dục đại học dưới tác động của trí tuệ nhân tạo và công nghệ mới.

Liệu các trường đại học có tiếp tục mô hình học tập trung như hiện nay, với chương trình và các bài thuyết giảng truyền thống, hay mô hình đó cũng sẽ “sụp đổ” theo thời gian, và nhân loại sẽ có những cách học hoàn toàn mới, không phụ thuộc vào không gian và thời gian tập trung như các đại học truyền thống đang duy trì hiện nay?

Hãy tưởng tượng khi mỗi người có một thiết bị học tập cá nhân mang theo mà không cần phải đến giảng đường đại học, cũng không phải chỉ học với các giáo sư mà với các trợ lý học tập dùng trí tuệ nhân tạo, và người học cũng không cần được cấp bằng đại học, thì sẽ như thế nào?

Do vậy khi chúng ta đưa ra các mục tiêu “cứng” cho tương lai, cũng sẽ cần dự báo trước cả những thay đổi nhanh chóng của thời đại trong những thập kỷ tới dẫn tới sự thay đổi mạnh mẽ về cách thức học tập.

Nghị quyết 71 nhìn chung đã đưa ra chiến lược tổ chức việc học chính quy cho nhà trường, nhưng cũng sẽ cần định hướng một xã hội học tập của tương lai, ở đó học là một nhu cầu tự thân, tự nguyện, học không vì bằng cấp, không cần được cấp bằng. Một người học trong tương lai sẽ là một người có khả năng tự giáo dục mình, tự sáng tạo ra chính mình với sự hỗ trợ của công nghệ. Trường học khi đó có thể sẽ chỉ còn vai trò hỗ trợ chứ không quyết định như hiện nay.

Chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/can-dinh-huong-mot-xa-hoi-hoc-tap-cua-tuong-lai-post1569096.html
Zalo