Cần 10.000 tỷ đồng để đào tạo 16.000 nhân lực chất lượng cao cho đường sắt
Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam cũng đề xuất hình thành trung tâm công nghiệp chiến lược đường sắt quy mô khoảng 200 ha, tổng chi phí xây dựng và trang thiết bị lên tới 200 triệu USD, chưa bao gồm chi phí đất.

Ông Đặng Sỹ Mạnh, Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP
Phát biểu tại Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) sáng ngày 27/2, ông Đặng Sỹ Mạnh, Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam cho biết, trong thời gian rất ngắn đã trình và được Quốc hội thông qua 2 siêu dự án đường sắt. Khi thực hiện hoàn thành, đường sắt chắc chắn sẽ trở thành "trục xương sống, động mạch chủ của nền kinh tế ", xứng đáng với vai trò của ngành đường sắt như các nước có đường sắt phát triển.
Năm 2025, ngoài việc tăng tốc, bứt phá, về đích của nhiệm kỳ, còn là năm Tổng công ty tập trung cao độ để triển khai thực hiện các nội dung liên quan về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam và tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng.
Phát huy những thành quả đạt được trong thời gian qua, nghiên cứu thị trường, tìm hiểu kinh nghiệm của đường sắt các nước trên thế giới, năm 2025 và các năm tiếp theo, Tổng công ty đặt mục tiêu tăng trưởng năm 2025 đạt 8% và các năm tiếp theo đạt được hai con số. Tổng công ty tập trung thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất là nhóm giải pháp cho đường sắt hiện hữu.
Về lĩnh vực vận tải, Tổng công ty tiếp tục mở rộng các sản phẩm vận tải hành khách kết hợp du lịch, mang đến trải nghiệm di chuyển gắn với khám phá văn hóa, cảnh quan. Đồng thời, đơn vị tăng cường hợp tác với doanh nghiệp, địa phương để hình thành chuỗi dịch vụ kết nối, đẩy mạnh khai thác dịch vụ trên tàu và tại các nhà ga.
Về vận tải hàng hóa, doanh nghiệp tập trung phát triển các tuyến liên vận quốc tế, đưa cửa khẩu vào sâu trong nội địa và mở rộng mạng lưới kết nối với châu Âu, Tây Á.
Tổng công ty lên kế hoạch nghiên cứu, đầu tư đóng mới các phương tiện vận tải nhằm tăng cường năng lực vận tải hàng hóa và hành khách. Đặc biệt, đơn vị chú trọng phát triển các sản phẩm tự hành, toa xe cao cấp, toa xe mui trần và phương tiện thân thiện với môi trường.
Về hạ tầng, các dự án cải tạo, nâng cấp tuyến đường sắt nhằm nâng cao chất lượng vận tải và phát triển du lịch tiếp tục được đề xuất. Ngoài ra, Tổng công ty đặt mục tiêu hàn liền ray, nâng cấp các tuyến xuyên tâm thành phố, kết nối đường sắt với khu công nghiệp, cảng biển.
Trong lĩnh vực khai thác tài sản, đơn vị tập trung triển khai Nghị định 15/2025/NĐ-CP về quản lý tài sản, đồng thời phát triển các trung tâm logistic và dịch vụ hỗ trợ vận tải nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc kiểm kê, phân loại và khai thác tài sản cũng được thực hiện theo quy định để đảm bảo hiệu quả tối đa.
Bên cạnh đó, Tổng công ty tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số theo Nghị quyết 57, đồng thời tinh gọn bộ máy theo Nghị quyết 18 nhằm nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành.
Thứ hai là nhóm giải pháp cho đường sắt mới, đường sắt tốc độ cao.
Bên cạnh việc phối hợp với Bộ Giao thông vận tải triển khai các dự án đường sắt trọng điểm như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, Tổng công ty tập trung thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết 172 và 187 của Quốc hội.
Trong đó, đơn vị sẽ đảm nhận quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt, tổ chức vận hành khai thác, huy động các doanh nghiệp tham gia đầu tư phương tiện. Đồng thời, mô hình quản lý, bảo trì hạ tầng sẽ được tái cấu trúc để đảm bảo tính đồng bộ, hiện đại và hiệu quả cao.
Ba đề án nâng cao hiệu quả hoạt động đường sắt
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường đường sắt và kinh nghiệm quốc tế, Tổng công ty đề xuất xây dựng và phê duyệt ba đề án quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động:
Thứ nhất, đề án tái cơ cấu Tổng công ty Đường sắt Việt Nam theo hướng có các tổng công ty con về hạ tầng, vận tải, công nghiệp, và học viện đào tạo. Với năng lực phù hợp để xứng tầm với một doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, thực hiện nhiệm vụ mà Nghị quyết 172, 187 của Quốc hội đã giao.
Thứ hai, đề án đào tạo phát triển nguồn nhân lực đường sắt cả cho đường sắt tốc độ cao, đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và đường sắt Đô thị.
Dự kiến nhu cầu nhân lực cho công tác quản lý, khai thác, bảo trì tuyến đường sắt mới là 16.000 lao động với chi phí đào tạo dự kiến 10.000 tỷ đồng. "Như vậy rất cần một đề án đào tạo nguồn nhân lực để đưa ra quy mô, thời gian, thời lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ, chi phí, chính sách… kịp thời cho việc xây dựng, quản lý, khai thác vận hành, bảo trì," ông Đặng Sỹ Mạnh đề xuất.
Thứ ba, đề án về phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ.
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đặt mục tiêu xây dựng hệ sinh thái công nghiệp đường sắt bền vững, đảm bảo nội địa hóa và chủ động công nghệ trong giai đoạn 2030-2050. Việc phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ sẽ là nền tảng quan trọng để hiện đại hóa hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị và đường sắt tốc độ cao.
Theo kế hoạch, nhu cầu đóng mới phương tiện, thiết bị đường sắt trong giai đoạn 2030-2050 sẽ rất lớn, bao gồm: 261 đầu máy, 1.100 toa xe đường sắt tốc độ cao, 1.000 toa xe khách, 7.000 toa xe hàng, 1.500 toa xe đường sắt đô thị.
Tổng công ty sẽ tiến hành phân tích chuyên sâu về công nghệ lõi, đảm bảo an ninh - quốc phòng, phát triển công nghiệp vệ tinh và nội địa hóa sản xuất. Các yếu tố nhập khẩu, xuất khẩu, lắp ráp và chế tạo sẽ được xem xét để xây dựng chính sách phù hợp, tạo nền tảng vững chắc cho ngành công nghiệp đường sắt trong nước.
"Trên cơ sở tính toán sơ bộ, Tổng công ty đề xuất thành lập một tổ hợp công nghiệp quy mô khoảng 200 ha với các phân khu chức năng, dây chuyền sản xuất, lắp ráp hiện đại. Dự kiến, tổng chi phí xây dựng và trang thiết bị lên tới 200 triệu USD, chưa bao gồm chi phí đất. Đây sẽ là trung tâm công nghiệp chiến lược, góp phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước, giảm sự phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu và đảm bảo chủ động trong công tác bảo trì, vận hành," Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam khẳng định.
Tổng công ty cũng chuẩn bị nguồn lực từ 20 công ty hạ tầng để tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng các tuyến đường sắt mới, qua đó vừa rút ngắn tiến độ thi công vừa tích lũy kinh nghiệm trong bảo trì, khai thác sau này.