Các vi phạm phổ biến trong thanh toán quốc tế và biện pháp ngăn chặn
Các đối tượng tội phạm không ngừng thay đổi, ứng biến về phương thức, thủ đoạn, lợi dụng các giao dịch chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam qua hệ thống ngân hàng cho hoạt động tội phạm.

Các hành vi vi phạm phổ biến của cá nhân, tổ chức trong hoạt động thanh toán quốc tế và biện pháp ngăn chặn xử lý trong công tác phòng chống rửa tiền
Ngày nay, sự phát triển của dịch vụ thanh toán quốc tế được thúc đẩy bởi công nghệ số hóa, thay thế phương thức truyền thống, mang lại sự tiện lợi, tốc độ nhanh, chi phí thấp cho các giao dịch xuyên biên giới, giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường và tối ưu hóa vận hành. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thanh toán chuyển tiền quốc tế, các đối tượng tội phạm không ngừng thay đổi, ứng biến về phương thức, thủ đoạn, lợi dụng các giao dịch chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam qua hệ thống ngân hàng cho hoạt động tội phạm.
Trước những thách thức và rủi ro tiềm ẩn, đặt ra vấn đề đối với các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là TCTD), cần phải nhận diện các hành vi vi phạm trong hoạt động thanh toán quốc tế để kịp thời có biện pháp rà soát, phát hiện, ngăn chặn các giao dịch có dấu hiệu liên quan đến tội phạm.
Nhận diện các hành vi vi phạm trong hoạt động thanh toán quốc tế
Trên cơ sở thông tin của cơ quan thực thi pháp luật gửi Cục Phòng, chống rửa tiền, qua thống kê các vụ án điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử trong giai đoạn vừa qua có liên quan đến hoạt động chuyển tiền quốc tế cho thấy, các nguy cơ về tội phạm liên quan đến các hành vi: "Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới", “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” và “Mua bán trái phép hóa đơn”. Kết quả phối hợp giữa Cục Phòng, chống rửa tiền và cơ quan thực thi pháp luật cho thấy, thủ đoạn của các đối tượng lợi dụng việc chuyển tiền ra nước ngoài trái quy định của pháp luật thường có những hành vi như sau:
- Các đối tượng thường mua lại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã có quá trình hoạt động hoặc thành lập các công ty bình phong. Người đại diện pháp luật của các doanh nghiệp này đều được các đối tượng thuê để ký vào các chứng từ liên quan đến doanh nghiệp, không nắm được hoạt động cụ thể của doanh nghiệp.
- Sử dụng hồ sơ/hợp đồng xuất nhập khẩu của các công ty khác; tẩy xóa, cắt dán chữ ký và con dấu, làm giả tài liệu (tờ khai hải quan, hợp đồng nhập khẩu, phụ lục hợp đồng).
- Điều chỉnh, nâng khống giá trị tờ khai hải quan: Các đối tượng đã trực tiếp điều chỉnh, nâng khống giá trị hàng hóa ghi trên tờ khai lên nhiều lần, mang ra ngân hàng sử dụng giao dịch chuyển tiền trái phép hoặc bán lại cho các đối tượng làm dịch vụ chuyển tiền có nhu cầu mua hồ sơ chuyển tiền.
- Làm giả Hợp đồng/Phụ lục hợp đồng nhập khẩu hàng hóa để chỉ định thanh toán tiền hàng cho bên thứ ba ở nước ngoài (không chứng minh được mối quan hệ giữa bên bán hàng và bên thứ ba được bên bán hàng chỉ định nhận tiền).
- Doanh nghiệp sử dụng 01 bộ chứng từ xuất – nhập khẩu để chuyển tiền nhiều lần ra nước ngoài qua hệ thống ngân hàng.
Các hành động triển khai nhằm ngăn chặn các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong thanh toán quốc tế
Trong phạm vi công tác phòng, chống rửa tiền, Cục Phòng, chống rửa tiền đã tham mưu Ban lãnh đạo ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, cảnh báo các TCTD để ngăn chặn và xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong chuyển tiền quốc tế ra/ vào Việt Nam như:
(i) Văn bản số 334/NHNN-TTGSNH.m ngày 06/5/2016 gửi các Bộ, ngành về việc phối hợp ngăn chặn hành vi buôn lậu với nội dung kiến nghị Ban chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường phối hợp với các đơn vị (như lực lượng công an, NHNN, Bộ Tư lệnh cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, chính quyền địa phương) trên địa bàn tỉnh thành phố trọng điểm; các lực lượng hải quan phối hợp các cơ quan thuế kiểm soát chặt chẽ công tác kiểm tra sau thông quan, hoạt động tạm nhập tái xuất nhằm đấu tranh với hành vi buôn lậu và thẩm lậu, gian lận thương mại.
(ii) Văn bản số 335/NHNN-TTSGNH.m ngày 06/5/2016 gửi các TCTD về việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động thanh toán nhập khẩu của các doanh nghiệp.
(iii) Văn bản số 626/NHNN-TTGSNH.m ngày 16/8/2016 gửi các TCTD về việc tăng cường các biện pháp phòng, chống hoạt động buôn lậu, gian lận thuế, trốn thuế, rửa tiền.
(iv) Văn bản số 311/TTGSNH5 ngày 28/3/2022 gửi các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài về việc phổ biến báo cáo phân tích xu hướng của những đối tượng trong báo cáo giao dịch đáng ngờ về chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam.
(v) Văn bản số 1235/Cục V.2 ngày 09/8/2024 gửi các TCTD về giao dịch có dấu hiệu tội phạm.
Để kiểm soát các rủi ro và nguy cơ rửa tiền, vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối có thể xảy ra trong quá trình cung ứng các sản phẩm dịch vụ liên quan đến hoạt động chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam, các TCTD cần nghiên cứu, thực hiện các hành động như sau:
Thứ nhất là tiếp tục triển khai, phổ biến trong toàn hệ thống và thực hiện theo chỉ đạo của các văn bản cảnh báo mà Ngân hàng Nhà nước, Cục Phòng, chống rửa tiền đã ban hành liên quan đến chuyển tiền ra nước ngoài, qua đó các TCTD phải:
- Kiểm soát kỹ hồ sơ, giấy tờ, các giao dịch liên quan đến hoạt động thanh toán nhập khẩu; yêu cầu các doanh nghiệp nghiêm túc hoàn trả, bổ sung đầy đủ các hồ sơ, giấy tờ liên quan đến hoạt động nhập khẩu (như tờ khai hải quan, các tài liệu có liên quan ...) theo đúng quy định về quản lý ngoại hối và thanh toán xuất nhập khẩu. Đối với giao dịch thanh toán trả trước, các ngân hàng cần theo dõi cá nhân/ tổ chức thực hiện giao dịch, thực hiện các biện pháp thu hồi chứng từ bổ sung để có thể đánh giá hợp đồng xuất nhập khẩu ứng trước có được thực hiện trên thực tế hay không.
- Nếu phát hiện hoặc có cơ sở nghi ngờ hiện tượng các doanh nghiệp tạo dựng hợp đồng không có thật hoặc nâng khống giá trị giao dịch chuyển tiền thanh toán cho các đối tác nước ngoài không phù hợp với giá trị hợp đồng và xem xét, đánh giá giao dịch nghi ngờ có liên quan đến rửa tiền thì TCTD thực hiện báo cáo giao dịch đáng ngờ về Cục Phòng, chống rửa tiền theo quy định pháp luật.
- Đối với trường hợp các chứng từ liên quan phát hành qua hình thức điện tử, các ngân hàng cần đối chiếu với các thông tin về cá nhân/tổ chức thực hiện giao dịch dựa trên thông tin nhận biết khách hàng của cá nhân/tổ chức đã được TCTD thực hiện.
- Đối với trường hợp cá nhân/tổ chức thực hiện thanh toán với nhiều bên thứ ba ở các quốc gia khác nhau mà không có mối liên hệ rõ ràng, TCTD cần có biện pháp thu thập, xác minh thêm thông tin khách hàng (như qua ngân hàng đại lý, bên thứ ba) để có hiểu biết đầy đủ về cá nhân/ tổ chức thụ hưởng trước khi thực hiện giao dịch thanh toán/ chuyển tiền.
Thứ hai, thực hiện nghiêm túc công tác đào tạo, phổ biến để cập nhật các dấu hiệu đáng ngờ, phương thức giao dịch và thủ đoạn của cá nhân/tổ chức giao dịch về nội dung liên quan đến chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam qua hệ thống các tổ chức tín dụng nói riêng, các phương thức, thủ đoạn về rửa tiền/ tài trợ khủng bố nói chung trong đơn vị.
Thứ ba, nghiên cứu bổ sung các quy định, cách thức xử lý cụ thể trong nội bộ liên quan đến sản phẩm, dịch vụ thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất, nhập khẩu của doanh nghiệp phù hợp với quy định.
Bên cạnh những hành động trong công tác phòng, chống rửa tiền như trên, hàng loạt các giải pháp đã và đang triển khai đồng bộ nhằm (i) Rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các văn bản quy định pháp luật về ngoại hối và thanh toán quốc tế nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. Theo đó, NHNN đã có các thông tư như: Thông tư số 20/2022/TT-NHNN ngày 30/12/2022 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn hoạt động chuyển tiền một chiều từ Việt Nam ra nước ngoài và thanh toán, chuyển tiền cho các giao dịch vãng lai khác của người cư trú là tổ chức, cá nhân, Thông tư số 25/2025/TT-NHNN ngày 31/8/2025 2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 17/2024/ TT-NHNN quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán,...; (ii) Thanh tra, giám sát đối với hoạt động chuyển tiền quốc tế nhằm kiểm soát, phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm của cá nhân/ tổ chức trong hoạt động chuyển tiền quốc tế ra/vào Việt Nam đã và cũng đang được thực hiện.




























