Cá nhân hóa việc học hiệu quả: Chìa khóa của giáo dục thông minh
Giáo dục thông minh không chỉ là sự đổi mới trong cách dạy và học, mà còn là bước tiến hướng tới tính thích ứng và cá nhân hóa trong quá trình học tập.

Sinh viên Trường Đại học RMIT Việt Nam. Ảnh: NTCC
Theo các chuyên gia, việc ứng dụng công nghệ và phương pháp giảng dạy hiện đại là chìa khóa để mỗi người học được phát triển theo năng lực, tốc độ và nhu cầu riêng, thay vì học theo một khuôn mẫu chung.
Bản chất của giáo dục thông minh
Theo ông Lê Tuấn Tứ - nguyên Giám đốc Sở GD&ĐT Khánh Hòa, đại biểu Quốc hội khóa XIV - giáo dục thông minh không chỉ dừng lại ở việc đưa công nghệ vào giảng dạy, mà quan trọng hơn là sử dụng công nghệ để phục vụ cho sự phát triển của người học. Bản chất của giáo dục thông minh, theo ông, nằm ở việc “hiểu người học”, nắm bắt được năng lực, sở thích và mục tiêu của từng cá nhân, từ đó thiết kế hành trình học tập phù hợp.
Ông Tứ cho rằng, trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu học tập đang mở ra cơ hội hiện thực hóa điều này. “Nếu trước đây, lớp học truyền thống buộc tất cả học sinh học cùng một tốc độ và nội dung, thì nay công nghệ cho phép chúng ta xây dựng những lộ trình học khác nhau. Mỗi học sinh có thể được gợi ý bài học, bài tập hay phương pháp tiếp cận riêng, phù hợp với năng lực và mục tiêu của mình”, ông Lê Tuấn Tứ chia sẻ.
Tuy nhấn mạnh tầm quan trọng của cá nhân hóa, ông Tứ cũng lưu ý rằng, điều này không đồng nghĩa với việc tách rời cộng đồng học tập. Người học vẫn cần được đặt trong môi trường tương tác, hợp tác và phản hồi đa chiều để phát triển toàn diện. “Công nghệ chỉ là công cụ; điều cốt lõi vẫn là triết lý giáo dục nhân văn, hướng đến sự trưởng thành của con người”, ông nói.
Để hướng tới một nền giáo dục thông minh thực chất, ông Lê Tuấn Tứ cho rằng, các nhà trường cần đầu tư đồng bộ - từ hạ tầng công nghệ, chương trình đào tạo đến bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ giáo viên. “Chỉ khi người dạy biết tận dụng công nghệ để khơi dậy tiềm năng của người học, chúng ta mới thật sự tiến gần tới nền giáo dục cá nhân hóa và sáng tạo”, ông nhấn mạnh.

Học sinh Trường THCS Trần Phú (Lĩnh Nam, Hà Nội) trải nghiệm thực tế ảo. Ảnh: TG
“Chiếc nạng” tri thức?
Trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) tại Việt Nam, mới đây, khóa tập huấn “Khung năng lực AI dành cho giáo viên” đã được tổ chức tại Quảng Ngãi.
GS.TS Lê Anh Vinh - Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, giới thiệu dự thảo Khung năng lực AI dành cho giáo viên, xác định rõ các nhóm năng lực cốt lõi: Từ hiểu biết cơ bản, tư duy phản biện, đạo đức sử dụng AI cho tới khả năng ứng dụng và thiết kế hoạt động dạy học có sự hỗ trợ của công nghệ này. Đây được xem là nền tảng quan trọng giúp giáo viên đồng hành cùng học sinh trong quá trình học tập, khai thác công nghệ một cách hiệu quả, hướng tới đổi mới cách dạy - cách học, đồng thời đề cao sự thích ứng và cá nhân hóa.
Theo GS.TS Lê Anh Vinh, việc trang bị năng lực tiếp cận, sử dụng và giảng dạy về AI không chỉ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, mà còn góp phần nâng cao chất lượng dạy học, hình thành cho học sinh tư duy sáng tạo, năng lực số và đạo đức công nghệ. Tuy nhiên, việc ứng dụng AI cần được triển khai an toàn, có trách nhiệm, để phát huy tối đa tiềm năng và hạn chế rủi ro.
Nhấn mạnh rằng việc tích hợp AI vào giảng dạy chỉ thực sự hiệu quả khi được xây dựng trên nền tảng sư phạm rõ ràng và có mục tiêu cụ thể, bà Vũ Kim Chi - đại diện UNICEF Việt Nam, cho rằng, điều này cần được hỗ trợ bằng nghiên cứu thực chứng, so sánh và đánh giá cụ thể về tác động của AI tới kết quả học tập. “AI không thể triển khai rời rạc, mà cần được lồng ghép trong một hệ sinh thái giáo dục đồng bộ, toàn diện để đảm bảo hiệu quả bền vững”, bà Chi nhấn mạnh.
Là nhà giáo từng nhận Giải thưởng quốc gia về Giảng dạy đại học tại Australia, PGS.TS White chia sẻ góc nhìn quốc tế về việc tích hợp AI tạo sinh (Generative AI) trong giáo dục đại học. Theo bà, GenAI là công cụ mạnh mẽ, nhưng “giống như một chiếc đồng hồ thông minh, nó cần được sử dụng có chiến lược, chứ không phải lúc nào cũng đem ra dùng. Điều quan trọng là phải xác định vị trí phù hợp của GenAI trong hệ thống giáo dục”.
PGS.TS White cũng kêu gọi những người làm công tác giáo dục định hướng sinh viên sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ, thay vì phụ thuộc vào nó. Dẫn lời GS Angela Duckworth, tác giả cuốn “Grit: Vững tâm bền chí ắt thành công”, PGS White nhắc lại: Tôi lo rằng sinh viên sẽ dùng AI như chiếc nạng. Não bộ con người giống như một nhóm cơ, nếu không được rèn luyện, nó sẽ dần yếu đi.
Với thế hệ trẻ am hiểu công nghệ và tốc độ số hóa mạnh mẽ, bà Sasha Stubbs - Trưởng phòng Thiết kế học tập, Trường Đại học RMIT Việt Nam, nhìn nhận, Việt Nam đang đứng trước cơ hội tuyệt vời để tái định hình cách học tập và mở rộng trải nghiệm giáo dục thông qua công nghệ. Dù vẫn ở giai đoạn đầu của hành trình đổi mới, nhưng Việt Nam đang tạo ra sức bật rõ rệt.
Tính đến năm 2024, các nền tảng quản lý học tập (LMS) đã được triển khai rộng rãi tại nhiều trường đại học, trở thành một phần trong chiến lược chuyển đổi số quốc gia về giáo dục đại học. “Việt Nam tuy là tân binh trong lĩnh vực đổi mới giáo dục, nhưng có tiềm năng to lớn trong thiết kế mô hình học tập kết hợp và trực tuyến”, bà Stubbs nhận định.
Chứng kiến sự chuyển mình đó, bà kể lại, khi mới đến Việt Nam bốn năm trước, bà từng lo lắng không thể tuyển được đội ngũ thiết kế học tập trong nước. “Đến hôm nay, tôi tự hào nói rằng, ngoại trừ tôi, toàn bộ đội ngũ Thiết kế học tập tại RMIT Việt Nam đều là người Việt. Họ là những chuyên gia tài năng và tận tâm nhất mà tôi từng có cơ hội làm việc cùng”, bà chia sẻ và cũng chỉ ra những thách thức còn tồn tại dai dẳng, như hạ tầng số chưa đồng đều và mô hình giáo dục truyền thống vẫn lấy giáo viên làm trung tâm. Hệ thống giáo dục vốn đặt trọng tâm vào người dạy tạo ra tâm thế e dè trước đổi mới, nhưng điều này đang dần thay đổi. Ngày càng nhiều nhà giáo trẻ bước vào ngành, mang theo tinh thần cởi mở và sẵn sàng đổi mới.

Giáo viên cần biết tận dụng công nghệ để khơi dậy tiềm năng của người học. Ảnh: TG
Việt Nam - điểm sáng mới của thiết kế học tập số
Theo Sách trắng Công nghệ giáo dục Việt Nam năm 2025, doanh thu toàn ngành đã đạt 360 triệu USD - con số phản ánh tốc độ phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực còn non trẻ này. Với lực lượng lao động trẻ, giỏi công nghệ và tư duy đổi mới, bà Sasha Stubbs nhìn thấy tiềm năng để Việt Nam trở thành trung tâm thiết kế học tập và dịch vụ giáo dục có sức cạnh tranh toàn cầu.
Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển mình sang công nghệ cao, tự động hóa và AI, việc học cũng cần được tái định hình. “Tư duy rằng chỉ cần có tấm bằng là yên tâm có việc làm cả đời đã lỗi thời”, bà Stubbs nhận định, đồng thời cho rằng học tập suốt đời sẽ trở thành thói quen bình thường của xã hội hiện đại.
Theo bà, các trường đại học Việt Nam cần chuyển hướng sang đào tạo mô-đun linh hoạt – gồm các khóa học ngắn hạn, chứng chỉ vi mô và bằng cấp tích lũy. Đây là xu hướng mà nhiều đại học hàng đầu thế giới đã tiên phong, giúp người học chủ động tích lũy kỹ năng phù hợp với từng giai đoạn nghề nghiệp. “Các cơ sở giáo dục Việt Nam hoàn toàn có thể bắt nhịp, cung cấp hình thức học tập nhỏ gọn, linh hoạt cho người đi làm và người học suốt đời”, bà Stubbs nhấn mạnh.
Trong số các mô hình nổi bật, Trưởng phòng Thiết kế học tập, Trường Đại học RMIT Việt Nam, đặc biệt đề cập đến học tập đa hình thức (blended learning) – kết hợp linh hoạt giữa trực tuyến và trực tiếp. “Tại RMIT Việt Nam, hơn 200 môn học đã được chuyển đổi sang định dạng số”, bà dẫn chứng. Nhờ đó, RMIT đã nhận ba giải Bạch kim LearnX về đổi mới sáng tạo, thiết kế học tập và học tập trực tuyến – khẳng định năng lực thiết kế học tập của đội ngũ nhân sự Việt Nam.
Bà Stubbs cũng nhấn mạnh vai trò AI trong thiết kế học tập, khi công nghệ này có thể tự động hóa tác vụ lặp lại, tạo bản thảo nội dung, xây dựng mô phỏng tương tác và cá nhân hóa trải nghiệm học tập trên quy mô lớn. Sự phát triển nhanh của các nghề trong “không gian thứ ba” – như thiết kế học tập, công nghệ giáo dục và sáng tạo nội dung số – đang mở ra biên độ nghề nghiệp mới cho người trẻ Việt Nam.
“Với lực lượng lao động trẻ, giỏi tiếng Anh và thông thạo chuyên môn, Việt Nam có thể trở thành nguồn nhân lực toàn cầu trong lĩnh vực giáo dục số”, bà Stubbs nhận định, đồng thời cho biết thị trường quản lý chương trình học trực tuyến (OPM) toàn cầu dự báo đạt 7,7 tỷ USD trong năm nay – một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển dịch vụ thuê ngoài với chi phí cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cao.
Để hiện thực hóa tiềm năng này, bà Stubbs đề xuất các chính sách hỗ trợ hệ sinh thái công nghệ giáo dục, gồm ưu đãi cho các startup, công nhận chính thức nghề thiết kế học tập và đầu tư cho trung tâm đào tạo tại các trường đại học. “Giảng viên cần được hỗ trợ để chuyển từ phương pháp dạy truyền thống sang hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm, chủ động và đa hình thức”, bà nói.
Hiện, RMIT Việt Nam đang đóng vai trò then chốt trong tiến trình này. Thông qua các diễn đàn như Tầm nhìn giáo dục đại học và Cộng đồng thực hành giảng dạy, trường đã kết nối hàng chục trường đại học trên cả nước trong hành trình chuyển đổi số. “Phòng Thiết kế học tập của chúng tôi thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, sáng kiến đổi mới với đồng nghiệp Việt Nam tại các sự kiện này”, bà Stubbs cho biết.
Thông điệp bà Stubbs gửi đến sinh viên và các bạn trẻ mới bước vào ngành: Hãy nghiêm túc cân nhắc theo đuổi sự nghiệp trong ‘không gian thứ ba’ nơi giao thoa giữa giảng dạy truyền thống và công nghệ.































