Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn: Bộ không cổ vũ trường ĐH chạy theo số lượng tuyển sinh

Bộ trưởng Bộ GD cho biết, Bộ không cổ vũ các trường chạy theo số lượng tuyển sinh, đồng thời, cần tăng cường công tác quản lý, đánh giá chất lượng, cả công lẫn tư.

.t1 { text-align: justify; }

Chiều ngày 19/6, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn đăng đàn trả lời chất vấn về nhóm vấn đề giáo dục và đào tạo, đã có rất nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến lĩnh vực này.

 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn đăng đàn trả lời chất vấn về nhóm vấn đề giáo dục và đào tạo. Ảnh: Media Quốc hội.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn đăng đàn trả lời chất vấn về nhóm vấn đề giáo dục và đào tạo. Ảnh: Media Quốc hội.

Đầu tư cho giáo dục đại học giảm do tự chủ là cắt giảm rất cơ học

Phát biểu tại Phiên chất vấn, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Trường Giang (đoàn Đắk Nông) băn khoăn về nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp, kiến nghị đối với thực trạng chi ngân sách cho giáo dục đại học giảm. Cụ thể, năm 2013, chi ngân sách cho giáo dục đại học là 19.271 tỷ đồng (tương đương 0,43% GDP và 9,3% tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo). Tuy nhiên, đến năm 2022, giảm xuống còn hơn 10.000 tỷ đồng (chỉ chiếm 0,11% GDP và 3,4% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo). Như vậy, sau 10 năm, chi ngân sách cho giáo dục đại học giảm cả giá trị tuyệt đối và tương đối. Trong khi ngân sách nhà nước chi cho giáo dục lại tương đối ổn định trên 20%.

 Đại biểu Quốc hội Nguyễn Trường Giang (đoàn Đắk Nông). Ảnh: Media Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Trường Giang (đoàn Đắk Nông). Ảnh: Media Quốc hội.

Trả lời Đại biểu Nguyễn Trường Giang, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn thừa nhận thực tế khi nguồn chi ngân sách đầu tư cho giáo dục đại học 10 năm qua có xu hướng giảm.

Bộ trưởng lý giải, 10 năm qua là 10 năm triển khai mạnh mẽ xu hướng tự chủ đại học, các trường có mức tự chủ khác nhau. Nhưng có một điều, mỗi khi các trường được duyệt phương án tự chủ cũng là lúc ngành tài chính cắt phần kinh phí hỗ trợ cho chi thường xuyên.

Chính vì phần cắt bỏ kinh phí chi thường xuyên đó mà 10 năm qua, số trường tự chủ càng tăng lên, mức độ tự chủ càng cao thì số hỗ trợ từ Nhà nước giảm dần.

Theo Bộ trưởng, đây cũng là thực tế khó khăn cho các trường đại học trong phát triển chất lượng đào tạo và đầu tư cho đội ngũ giảng viên.

“Đảng và Nhà nước cũng thấy việc các trường tự chủ, tự túc về kinh phí có bất cập, do đó đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Tài chính điều chỉnh yếu tố tài chính trong tự chủ giáo dục đại học để làm sao các trường có tính tự chủ cao nhưng vẫn có phần hỗ trợ có tính chủ đạo của Nhà nước trong giáo dục đại học” - Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nêu.

Về vấn đề này, Đại biểu Nguyễn Trường Giang tiếp tục tranh luận và gửi câu hỏi này đến Bộ trưởng Bộ Tài chính và lãnh đạo Chính phủ.

Dẫn báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo gửi đại biểu Quốc hội trước phiên chất vấn, vị đại biểu đề cập: “Trong đó, nêu ở các quốc gia thu nhập trung bình thấp đã dành 18-23% GDP cho giáo dục. Trong khi đó, năm 2013, Việt Nam dành có 9,3%, đến 2022 giảm còn 3,4% do chính sách tự chủ. Tôi thấy đây là cách cắt giảm rất cơ học.

Nói đơn giản, ví dụ, năm 2022, tổng chi ngân sách nhà nước là hơn 1.784.600 tỷ đồng, nếu tính 20% cho giáo dục là khoảng 356.920 tỷ đồng. Nếu chỉ cần dành 10% cho giáo dục thì đã đạt tới 35.000 tỷ đồng, chứ không phải là 10.429 tỷ đồng như báo cáo của Bộ trưởng”.

Theo Đại biểu Nguyễn Trường Giang, trong tự chủ đại học có tự chủ về tổ chức, đào tạo, học thuật và tài chính chỉ là một phần trong vấn đề tự chủ.

“Trong báo cáo 719, tôi rất đồng tình với ý kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo về “nhận thức về tự chủ đại học chưa đúng”. Để thực hiện Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, tôi đề nghị, cần nhận thức đúng về việc cấp kinh phí cho giáo dục đại học” - vị đại biểu nhấn mạnh.

Lo ngại chất lượng khi trường đại học “tăng hết công suất” tuyển sinh

Quan tâm đến vấn đề tự chủ đại học, Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) nêu hiện tượng hàng năm các trường đại học, đặc biệt trường ngoài công lập đua nhau gia tăng chỉ tiêu tuyển sinh để có nguồn thu mà chưa chú trọng chất lượng đào tạo. Do đó, nhiều sinh viên khi ra trường không xin được việc làm phải bỏ ngành chuyên môn để tìm được việc làm.

Vị đại biểu đề nghị Bộ trưởng chỉ rõ nguyên nhân và cách khắc phục để nâng cao chất lượng giáo dục, đảm bảo sinh viên khi ra trường có việc làm ổn định.

 Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp). Ảnh: Media Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp). Ảnh: Media Quốc hội.

Cùng chung mối quan tâm đối với vấn đề trên, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Danh Tú (đoàn Kiên Giang) đề cập: “Theo Báo cáo của Bộ trưởng, cùng với tự chủ đại học và sự đa dạng hóa trong tuyển sinh, nhiều trường “tăng hết công suất” tuyển sinh để có nguồn thu từ học phí. Thực trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đề nghị Bộ trưởng cho biết nguyên nhân, trách nhiệm quản lý và giải pháp để giáo dục đại học góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thực học, thực nghiệm, quản lý tốt, giảng dạy tốt”.

 Đại biểu Quốc hội Nguyễn Danh Tú (đoàn Kiên Giang). Ảnh: Media Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Danh Tú (đoàn Kiên Giang). Ảnh: Media Quốc hội.

Về vấn đề mà Đại biểu Nguyễn Danh Tú quan ngại, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, đây cũng là chuyện có thật ở một số trường đại học. “Ở ta có một số trường không phải trong nhóm đầu nhưng quy mô 30.000-40.000 thậm chí 50.000 sinh viên cũng là câu chuyện có thật” - Bộ trưởng nói.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, một trong những nguyên nhân của tình trạng này chính là học phí.

Theo đó, trong khối trường đại học công, mức học phí trung bình khoảng 25 triệu đồng/năm (tương đương 1.000 USD), có ngành còn thấp hơn ở mức 15-20 triệu đồng/năm.

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn chia sẻ: “Với người dân khó khăn, số học phí này rất đáng kể. Nhưng so với trường đại học ở Mỹ với mức bình quân là 55.000-60.000 USD/năm, học phí của ta chỉ bằng 1/50. Như vậy, để đảm bảo vận hành của trường đại học, một số trường buộc tăng quy mô, lấy khoản học phí đó bù vào để vận hành trường.

Một số nguồn thu khác xuất phát từ dịch vụ, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ thường rất ít, hiếm trường nào vượt quá 5% tổng nguồn thu của đơn vị.

Đối với các trường quy mô tuyển sinh rất lớn, thực sự là một nguy cơ dẫn đến hệ lụy chất lượng đào tạo”.

Về giải pháp cho vấn đề này, ở góc độ quản lý Nhà nước, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh: “Cần kiểm soát nghiêm, đảm bảo chất lượng tỉ lệ tuyển sinh, công cụ kiểm định buộc các trường tuân thủ tỉ lệ tuyển sinh để nâng cao chất lượng.

Đồng thời, với trường thuộc khối công lập, phải tính đến có một phần hỗ trợ của Nhà nước chứ không chỉ trông chờ thuần túy vào học phí.

Cùng với đó, cần hỗ trợ cho người học từ nguồn tín dụng và các quỹ, các nguồn khác nhau. và các trường tùy theo chất lượng đào tạo của mình cũng cần có cân nhắc về mặt học phí cho hợp lý hơn. Bằng nhiều biện pháp khác nhau, có thể kiểm soát và nâng cao chất lượng đào tạo”.

 Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn trả lời chất vấn. Ảnh: Media Quốc hội.

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn trả lời chất vấn. Ảnh: Media Quốc hội.

Trả lời Đại biểu Phạm Văn Hòa, Bộ trưởng hỏi: “Đại biểu Hòa trích số liệu từ đâu? Khi chúng ta đưa ra số liệu cần làm rõ ai thống kê, nguồn nào, nếu không sẽ khiến các trường ngoài công lập tủi thân”.

Bộ trưởng cho biết, có nhiều kiểu loại trường ngoài công lập. Có những trường lọt top 1.000 thế giới nhưng cũng có những trường quy mô nhỏ thực sự đã tuyển sinh ồ ạt như đại biểu phản ánh. Năm trước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xử phạt hành chính một số trường tuyển sinh vượt chỉ tiêu.

Bộ trưởng cho rằng, Bộ không cổ vũ các trường chạy theo số lượng tuyển sinh, đồng thời, cần tăng cường công tác quản lý, đánh giá chất lượng các trường học bao gồm cả công lập và tư.

Cần tạo điều kiện để các trường ngoài công lập phát triển bình đẳng nhưng phải kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt để đảm bảo khi học sinh ra trường có thể tìm được công việc một cách tốt nhất.

Phát triển đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có xu hướng phát triển không đồng đều

Đại biểu Điểu Huỳnh Sang (đoàn Bình Phước) cho biết: “Nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò quyết định đối với phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nhất là khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra mạnh mẽ.

Tuy nhiên, thực tiễn việc phát triển đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có xu hướng phát triển không đồng đều giữa các ngành, các lĩnh vực và chủ yếu tập trung ở 2 thành phố lớn, trong khi các tỉnh, thành phố khác, đặc biệt là các tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo rất ít nhưng lại rất cần để trực tiếp giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội nơi đây và nhất là trong điều kiện đất nước đang thực hiện việc sáp nhập, sắp xếp các đơn vị hành chính.

Vậy giải pháp của Bộ trưởng trong việc phát triển cũng như nâng cao chất lượng giáo dục đại học gắn với yêu cầu tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước nói chung và vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa nói riêng trong tình hình mới như thế nào?”.

Trả lời nội dung này, Bộ trưởng cho rằng: “Đây là một nhu cầu rất thực tế. Hiện nay đúng là sự phân bổ các trường còn có những điểm chưa thật hợp lý, chính vì thế trong 6 nghị quyết vùng cũng đề cập đến, trong đó đều có đề cập đến phát triển các trường học tại các khu vực và còn nêu rõ phát triển trường đại học nào để cung cấp nguồn nhân lực cho các khu vực, đặc biệt trong đó nhấn mạnh đến vai trò của các đại học vùng và phát triển các trường ở các khu vực.

Trong thời gian sắp tới, về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ triển khai thực hiện 2 quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó có một quy hoạch về mạng lưới các trường đại học và các trường đại học sư phạm và một quy hoạch về hệ thống các trường dạy nghề.

Trong quá trình thực hiện các quy hoạch, chúng tôi sẽ tính toán đến các nhu cầu nhân lực của các vùng miền, các khu vực để làm sao thực hiện quy hoạch này, đồng thời việc thực hiện quy hoạch sẽ hướng đến khắc phục tình trạng các trường còn rất nhiều trường manh mún, đặc biệt là các trường trong thời gian tuyển sinh, đào tạo rất khó khăn...

Chúng tôi sẽ thực hiện những việc đó trong quy hoạch sắp tới để làm sao các vùng miền đều có các trường đại học, các cơ cấu ngành nghề để có thể đáp ứng được nguồn nhân lực cho các phát triển kinh tế - xã hội theo các đặc điểm vùng, tôi muốn nhấn mạnh lại vai trò của các đại học vùng có ý nghĩa rất quan trọng đối với vấn đề này”.

Tranh luận ở vấn đề này, Đại biểu Nguyễn Anh Trí (đoàn Hà Nội) cũng chia sẻ: “Thứ nhất, phải xác định cần phải ưu tiên để phát triển nguồn nhân lực cho những nơi khó khăn, nơi vùng sâu, vùng xa, đồng bào thiểu số... Cách làm là như thế này thì tôi cảm thấy hợp lý hơn và hiệu quả hơn, là nên ưu tiên đào tạo để có nguồn nhân lực đủ và có nhiều năng lực cho vùng sâu, vùng xa, cụ thể là Chính phủ nên cấp kinh phí cho các cháu đến các trường đại học lớn có thầy giỏi để học.

Còn vấn đề xây dựng các trường đại học ở những vùng sâu, vùng xa..., cần cân nhắc kỹ việc xây dựng các trường đại học ở các địa phương, đặc biệt ở vùng xa. Vì trường đại học phải có thầy giỏi, dạy phòng thí nghiệm hiện đại nếu y khoa nữa phải có bệnh viện nhiều bệnh nhân để thực tập, thư viện lớn, nhiều tài liệu thì đào tạo mới có chất lượng. Mặt nữa xây dựng trường đại học ở địa phương xa quá sẽ không có đủ người đến học, rất lãng phí.

Vậy, rất mong Bộ trưởng lưu ý để tư vấn cho Chính phủ về chiến lược mới trong việc xây dựng mạng lưới các trường đại học ở Việt Nam”.

 Đại biểu Nguyễn Anh Trí (đoàn Hà Nội) trao đổi tại Phiên chất vấn. Ảnh: Media Quốc hội.

Đại biểu Nguyễn Anh Trí (đoàn Hà Nội) trao đổi tại Phiên chất vấn. Ảnh: Media Quốc hội.

Tự chủ đại học còn nhiều rào cản, đặc biệt trong hợp tác đào tạo, lĩnh vực công nghệ cao

Đại biểu Lê Thị Song An (đoàn Long An) đặt vấn đề: “Tự chủ đại học là một chủ trương lớn, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của giáo dục đại học.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn nhiều rào cản, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác đào tạo, lĩnh vực công nghệ cao như: thiếu các chính sách hợp tác công - tư trong đào tạo nguồn nhân lực, phát triển công nghệ cao, cơ chế hỗ trợ trong lĩnh vực hợp tác đào tạo, chính sách thu hút giảng viên chất lượng cao đã được nêu ở phần hạn chế trong báo cáo số 719 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Đề nghị Bộ trưởng cho biết các giải pháp và lộ trình thực hiện cụ thể nhằm giúp các trường đại học khắc phục những hạn chế trên, đảm bảo cơ chế tự chủ, hiệu quả trong thời gian tới”.

 Đại biểu Lê Thị Song An (đoàn Long An). Ảnh: Media Quốc hội.

Đại biểu Lê Thị Song An (đoàn Long An). Ảnh: Media Quốc hội.

Giải đáp vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn Có thể nói, vấn đề tự chủ trong các trường đại học thời gian vừa qua đã được tiến hành khá tốt, đem lại sức sống, sự phát triển trong các trường đại học. Ở đó, các trường sẽ có một số quyền đã được phát huy tốt, như tự chủ về mặt tài chính, về mặt tổ chức, về học thuật, về hoạt động khoa học, về đào tạo, có một số các nội dung mà trong thời gian sắp tới, các tự chủ này cũng cần phải được hoàn thiện, điều chỉnh.

Hiện nay, ngành giáo dục đang làm cùng một công việc là sửa đổi Luật Giáo dục đại học (Luật số 34). Trong đó, sẽ có một phần quan trọng là điều chỉnh một số các nội dung để đảm bảo cho các quyền tự chủ của các trường đại học được tốt hơn.

Như nhiều ý kiến các đại biểu từ đầu cũng đề cập, đặc biệt là Đại biểu Nguyễn Trường Giang từ đầu cũng nói vấn đề về tài chính, chúng tôi đang đề xuất trao đổi với Bộ Tài chính, điều này cũng được Ủy ban Văn hóa và Xã hội cũng rất ủng hộ. Đấy là tự chủ mới của các trường đại học phải được tính toán làm sao không phụ thuộc vào mức độ tự chủ của tài chính.

Hiện nay, các trường đại học thì tự chủ lấy chuẩn là tài chính ra để làm chuẩn cho sự tự chủ. Ai tự chủ được mức độ của tài chính được đến đâu, tức là mức độ tự túc được về tài chính bao nhiêu thì cơ chế tự chủ sẽ đi cùng. Điều đó cũng có nhiều bất cập. Làm sao để mức độ tự chủ của các trường đại học phải độc lập, không lệ thuộc vào mức độ tự chủ của tài chính, còn Nhà nước sẽ xem xét việc tùy theo các ngành nghề, theo nhu cầu để có thể đặt hàng hoặc nếu hỗ trợ thì sẽ hỗ trợ thông qua người học bằng các cơ chế học bổng và hỗ trợ thì các trường đại học sẽ có được một cơ chế tự chủ đầy đủ hơn, sâu hơn...”.

Nghị quyết số 57 mở ra cơ hội cho các trường, nhưng muốn tận dụng được cơ hội, trường cần có thực lực

Đại biểu Nguyễn Hữu Thông (đoàn Bình Thuận) đặt câu hỏi: “Nghị quyết số 57-NQ/TW giao trách nhiệm cho các trường đại học trong việc chuyển giao nghiên cứu khoa học và chuyển giao khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo nhưng để thực hiện được điều đó các trường đại học cần phải có thực lực để đảm nhiệm.

Xin Bộ trưởng cho biết đánh giá của Bộ trưởng về tiềm lực khoa học, công nghệ của các trường đại học hiện nay. Với tiềm lực như vậy có thể là đảm nhiệm tốt sứ mệnh nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hay không? Những kiến nghị và giải pháp nào của Bộ trưởng để phát triển vấn đề này?”.

 Đại biểu Nguyễn Hữu Thông (đoàn Bình Thuận). Ảnh: Media Quốc hội.

Đại biểu Nguyễn Hữu Thông (đoàn Bình Thuận). Ảnh: Media Quốc hội.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, câu hỏi của Đại biểu Nguyễn Hữu Thông chuyển sang một nội dung rất khác. “Đấy là Nghị quyết số 57 tạo ra các cơ hội cho phát triển khoa học, công nghệ của các trường, nhưng muốn tận dụng được cơ hội này đúng là các trường cần có thực lực. Câu hỏi là cần phải đánh giá như thế nào về tiềm lực khoa học của các trường đại học.

Có thể bằng một vài lời mà đánh giá hết được tiềm lực của khoa học và công nghệ của các trường đại học đúng thực sự là khó. Nói đến tiềm lực khoa học và công nghệ của một cơ sở giáo dục đại học, đương nhiên chúng ta phải nhìn vào tiềm lực của con người, các chuyên gia, các nhà khoa học.

Có thể nhìn vào những truyền thống với các sản phẩm khoa học, công nghệ được tạo ra, được chuyển giao, đó là hạ tầng, các phòng thí nghiệm, trang thiết bị của các cơ sở giáo dục, đấy là các sản phẩm các trường tạo ra có thể chuyển giao, có thể thương mại hóa được sản phẩm... rất nhiều các yếu tố.

Nếu chỉ nhìn thuần túy từ góc độ cơ sở vật chất thì có thể nói hạ tầng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, phòng thực hành của chúng ta nói chung là lạc hậu, yếu, nhỏ. Đây là một bức tranh có thực.

Tôi sơ bộ tính toán số liệu của hơn 40 trường trực thuộc Bộ hiện nay có 840 phòng thí nghiệm, nhưng các phòng thí nghiệm chủ yếu nhỏ lẻ, cấp bộ môn, chủ yếu cho học sinh thực tập, giúp cho các thầy viết vài bài công bố, nhưng để tạo ra các sản phẩm phát minh, sáng chế và chuyển giao được thì rất ít có thể trông chờ vào các phòng thí nghiệm này.

Trong hơn 10 phòng, 15-16 phòng thí nghiệm trọng điểm cấp quốc gia thì Đại học Bách khoa Hà Nội có 1 phòng. Những phòng đó có tiềm lực khoa học tốt, có nhiều sản phẩm nhưng số lượng thì lại rất ít. Vừa qua, với chương trình 2 dự án mà Bộ được triển khai thì lập được 16 phòng thí nghiệm mới, nhưng các phòng thí nghiệm đó quy mô đều nhỏ, chỉ từ 20 đến 30 tỷ đồng.

Nhìn chung, các phòng thí nghiệm của chúng ta quy mô nhỏ nhưng được trang bị với các thời điểm khác nhau, các thập kỷ khác nhau, nguồn gốc xuất xứ khác nhau và tính kết nối, tính hệ thống. Nói chung, phải làm một cuộc hiện đại hóa đối với hạ tầng khoa học công nghệ của các trường thì các trường đại học mới có thể gánh vác được sứ mệnh phát triển khoa học công nghệ trong thời gian sắp tới”.

Đại biểu Lưu Bá Mạc (đoàn Lạng Sơn) cũng quan tâm đến nội dung trên: “Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị được coi là một “cú hích” và cũng được xác định là một trụ cột" đột phá phát triển khoa công nghệ đổi mới sáng tạo và đây là cơ hội rất thuận lợi cho lĩnh vực khoa học công nghệ trong đó bao gồm những cơ hội trực tiếp cho các trường đại học. Vậy, ngành giáo dục và đào tạo đã và sẽ có những giải pháp gì để cụ thể hóa cũng như tận dụng những lợi thế từ chính sách đột phá này để phát triển các trường đại học trong thời gian tới?”.

 Đại biểu Lưu Bá Mạc (đoàn Lạng Sơn). Ảnh: Media Quốc hội.

Đại biểu Lưu Bá Mạc (đoàn Lạng Sơn). Ảnh: Media Quốc hội.

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn chia sẻ: “Đúng như nhận định trên, Nghị quyết số 57 đã mở ra những cơ hội rất quan trọng để phát triển các trường đại học. Tuy nói về khoa học công nghệ nói chung, nhưng đối tượng được hưởng những chính sách, những quan tâm, những điều kiện thuận lợi thì không ai khác chính là các trường đại học. Cho nên, Nghị quyết số 57 là chủ trương phát triển đội ngũ, phát triển nhân tài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Trong phần các nhiệm vụ, giải pháp, thì nhiệm vụ, giải pháp thứ tư là hầu hết các nhiệm vụ thuộc về trách nhiệm của các trường đại học, một trong điều mà ngành giáo dục và đào tạo phải thực hiện để có thể tận dụng được điều kiện và cơ hội này đấy là việc tư duy lại, nhận thức lại về việc tổ chức nghiên cứu khoa học trong trường đại học, vì trước nay chủ yếu có một số đề tài nhỏ, lẻ, ít có các nhiệm vụ khoa học công nghệ lớn, việc tổ chức nghiên cứu làm thế nào đó để có các sản phẩm khoa học công nghệ lớn, có thể chuyển giao, có thể thương mại hóa, có thể đáp ứng được các nhu cầu của doanh nghiệp, việc sắp xếp tư duy lại về chỉ đạo lĩnh vực khoa học công nghệ cho các trường cũng cần phải đổi mới thì mới đáp ứng được.

Đối với ngành giáo dục, có Nghị định số 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học, chúng tôi cũng đang đề xuất tham mưu cho Chính phủ điều chỉnh Nghị định số 109 để khi Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo mới được ban hành thì nghị định này cũng được đi vào cuộc sống, tạo điều kiện cho các trường đại học trong việc nghiên cứu.

Trong Nghị quyết số 57, trọng tâm là tháo gỡ các khó khăn, các nút thắt, các điểm nghẽn trong việc chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm, tăng cường kết nối giữa các trường đại học với các doanh nghiệp và các tổ chức.

Đây là một cơ hội mà các trường phải gia tăng đổi mới các sản phẩm nghiên cứu khoa học phải chuyển giao được và phục vụ cho các yêu cầu thực tiễn của các doanh nghiệp, tăng cường kết nối với các doanh nghiệp. Khi Nghị quyết số 57 đã mở thông thì việc tăng cường tiềm lực nghiên cứu khoa học, sản phẩm nghiên cứu khoa học định hướng thì mới có thể đáp ứng được các yêu cầu về sản phẩm khoa học công nghệ theo Nghị quyết này”.

Tuyển sinh thuộc quyền tự chủ của các trường, song, tự chủ không có nghĩa thích làm gì thì làm

Đại biểu Chu Thị Hồng Thái (đoàn Lạng Sơn) nêu: “Gần đây dư luận đặc biệt quan tâm trước việc một số trường đại học thông báo dừng tuyển sinh với khối C00, vốn là khối thi truyền thống cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn, báo chí, luật học, giáo dục chính trị. Việc này khiến dư luận lo ngại về sự mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo, nguy cơ làm suy giảm vị thế các ngành nghề khoa học xã hội, ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của học sinh và cả chiến lược phát triển nguồn nhân lực.

Xin Bộ trưởng cho biết, Bộ đã có đánh giá cụ thể như thế nào về hiện tượng này và định hướng chỉ đạo sắp tới của Bộ để đảm bảo hài hòa cơ cấu ngành nghề trong hệ thống giáo dục đại học là gì?”.

Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu rõ: “Trong thực tế, khi thấy có bất thường trong tổ hợp tuyển sinh, Bộ cũng đã có điều chỉnh và quan điểm của Bộ, việc tuyển sinh thuộc quyền tự chủ của các trường.

Tuy nhiên, tự chủ không có nghĩa là thích làm gì thì làm mà cần có những chính sách điều tiết và trong thực tế đã có những chính sách nhằm điều tiết những việc này.

Còn đại biểu lo ngại việc học sinh học tập các môn, đăng ký các tổ hợp có lệch về khối này hay lệch về phía khác, đây cũng là năm đầu tiên chúng ta thi chương trình giáo dục phổ thông 2018 với cách thi thực chất là không còn thi theo khối mà thi theo các môn tổ hợp chứ không phải là các khối như cũ nữa.

Bộ sẽ tiếp tục đánh giá xem việc đăng ký các trường đại học như thế nào và đặc biệt quan trọng trong đó tỉ lệ học sinh vào các khối ngành khoa học xã hội và khối các ngành công nghệ kỹ thuật như thế nào để có những chính sách để có thể điều tiết được đối với việc tuyển sinh của các khối ngành để đảm bảo các cơ cấu ngành nghề trong tương lai được hài hòa”.

Mộc Hương

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/bo-truong-nguyen-kim-son-bo-khong-co-vu-truong-dh-chay-theo-so-luong-tuyen-sinh-post252174.gd
Zalo