'Bờ sông vẫn gió' người không thấy về

'Bờ sông vẫn gió' có thể nói là bài thơ rất giản dị, từ tứ thơ đến cấu trúc bài thơ; mẹ không còn ở trên thế gian nhưng mọi cảnh vật gắn bó với mẹ vẫn còn nguyên đây, xin mẹ một lần trở về, chỉ một lần thôi, rồi mẹ hãy đi ... Vậy thôi, giản dị nhưng không hề đơn giản. Trúc Thông đề cập tới nỗi đau thương lớn nhất của đời người (mẹ mất) không phải chỉ bằng nhịp điệu hay câu chữ uyển chuyển của thể thơ mà ở sự chân thành của tình thơ trong âm điệu buồn thương nhưng ngời sáng lung linh của tình mẫu tử.

Trúc Thông - tên khai sinh là Đào Mạnh Thông (1940 - 2021) - là một trong những gương mặt nhà thơ đặc biệt của nền thi ca Việt Nam hiện đại, khoảng từ thập niên bẩy mươi của thế kỷ trước trở lại đây. Thơ ông trưởng thành từ trong đạn bom của những năm tháng chống Mỹ cứu nước và có nhiều đóng góp đáng ghi nhận cho nền thơ Việt Nam, nhất là trên bình diện cách tân nghệ thuật. Với ông, “thơ như một ngôi đền thiêng liêng không một sự thô thiển nào được chạm tới”. Ông tôn thờ thơ. Suốt đời coi thơ ca giống như một thứ tôn giáo đặc biệt và không ngừng tìm tòi, thể nghiệm, đổi mới. Tuy vậy, bài thơ nổi tiếng và có thể xếp vào loại hay nhất của Trúc Thông, cũng như những bài thơ viết về đề tài “mẹ” trong thơ ca Việt Nam, được nhiều bạn đọc nhắc đến nhất, yêu thích nhất lại là một bài thơ mang đậm nét truyền thống. Đấy là bài thơ “Bờ sông vẫn gió”, được sáng tác năm 1983, trong một lần nhà thơ về thăm quê ở Bình Lục, Hà Nam (nay là tỉnh Ninh Bình). Bài thơ như sau:

Bờ sông vẫn gió
(Chị em con kính dâng hương hồn mẹ)
Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
Một lần cuối... một lần về cuối thôi
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
Cây cau cũ, giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần
Con xin ngắn lại đường gần
Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi…

Bài thơ được sáng tác bằng thể thơ truyền thống của dân tộc. Câu chữ không nhiều, gồm sáu cặp lục bát với tám mươi tư chữ; cảm xúc dồn nén khiến tình thơ bộc phát thành những lời nghẹn ngào, xúc động đến ám ảnh về một thi đề tưởng chừng như rất quen thuộc, “mẹ”. Đây chính là thành công của nhà thơ. Dường như lời thơ được phát ra một cách tự nhiên từ trong sâu thẳm trái tim chứ không hề có dụng công nghệ thuật. Trúc thông nghĩ gì thì lời thơ tràn ra như thế. Bởi vậy người đọc có cảm giác, lúc này, tình mẫu tử sâu nặng, cao quý, thiêng liêng trong nhà thơ có vẻ đang dâng lên quá ngưỡng mà trào ra thành lời. Cho nên đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời, ta thấy nó giống như một linh cảm về một điều chẳng lành sắp xảy ra.

Nhiều người đọc bài thơ tưởng rằng đây là lời khóc của nhà thơ khi bị mất mẹ, nhất là đọc lời đề từ: “Chị em con kính dâng hương hồn mẹ”. Thực ra, bài thơ được viết khi mẹ Trúc Thông vẫn đang còn sống. Bài thơ ra đời sau một năm thì người mẹ yêu quý của Trúc Thông mới về miền mây trắng. Hóa ra, tình yêu thương mẹ lúc nào cũng thường trực trong tâm trí nhà thơ. Người con tha hương Trúc Thông ấy lúc nào cũng bị ám ảnh về một ngày nào đó không xa mình sẽ bị mất đi người mẹ vô cùng yêu quý. Và cứ mỗi lần nhìn thấy “mẹ già như chuối chín cây”, lòng người con ấy chẳng thể nào kìm nén được mà phải thốt nên thành lời. Cái lời ấy vừa khắc khoải, thống thiết vừa đau đớn, diết da.

Phần đầu của bài thơ là một cặp lục bát với những thi ảnh tưởng là tả thực nhưng hóa ra chứa đầy tâm trạng. Đó là hình ảnh bờ sông với bãi ngô, ngọn gió và người mẹ. Thoạt nhìn ta ngỡ không có gì nhưng đọc kỹ, chú ý đến cách ngắt nhịp, người ta sẽ thấy nỗi nghẹn ngào bắt đầu trào dâng. Không gian, cảnh vật trong câu thơ vẫn như ngày xưa, không có gì thay đổi nhưng con người thì không thấy đâu, vắng bóng: “Lá ngô lay ở bờ sông”, “Bờ sông vẫn gió” - “người không thấy về”.

Tứ thơ cảnh còn người mất khiến cho bài thơ chuyển từ không gian tả thực sang không gian tâm trạng. Từ “lay” ở đây được sử dụng rất hay. Nó là một động từ đầy biểu cảm. Trước tiên, từ “lay” gợi lên làn gió ở bờ sông đang tạo ra những chuyển động nhẹ nhàng, yếu ớt của những chiếc lá trên những cây ngô bên bãi sông. Không gian tưởng như động ấy hóa ra lại rất tĩnh. Tĩnh tới mức chỉ cần một lá ngô lay động thôi mà cũng lộ ra ngay được. Và, cái tĩnh này cũng lại phản ánh rất thực trạng thái của lòng người.

Hình như tâm trạng con người đang bị chi phối bởi một nỗi niềm nào đó nên không gian quanh mình đã tĩnh lại càng trở nên tĩnh lặng. Cho nên từ “lay” cũng lại gợi ra những nỗi niềm cảm xúc man mác đang hình thành và cuộn lên trong lòng người con. Nỗi niềm ấy đã được nhà thơ thể hiện trực tiếp ở câu thứ hai.

Cái tĩnh lặng khác thường ở câu thơ thứ nhất được ẩn ý qua một động từ thì ở câu thơ thứ hai được thể hiện qua cách ngắt nhịp. Câu thơ thứ hai bị bẻ gãy làm đôi, cách ngắt nhịp 4/4 đã diễn tả tột cùng cái cảm xúc yên lặng, không nói nên lời đang diễn ra trong lòng người. Đó là nỗi bàng hoàng, ngỡ ngàng, đau đớn, xót xa của người con khi thấy thiếu vắng bóng mẹ. Chỉ vậy thôi, nhẹ nhàng mà thấm thía, cặp lục bát mở đầu đã đưa người đọc đến với một không gian chất chứa tâm trạng của tình mẫu tử trong cảnh biệt ly, âm dương đôi ngả.

Phần thứ hai là nội dung chính của bài thơ, gồm bốn cặp lục bát nối tiếp nhau. Ở phần thơ này Trúc Thông đã thể hiện rất chân thực nỗi niềm tâm trạng đau đớn của mình bằng một mong ước nhỏ nhoi với mẹ. Mẹ mất, tâm trạng người con đau xót là điều hiển nhiên, dễ nhận thấy. Nhưng thể hiện cái đau xót, tiếc nuối ấy bằng một mong ước người mẹ trở về, dù chỉ là “một lần cuối thôi” thì không chỉ có đau xót mà còn ẩn chứa cả sự tiếc nuối, không muốn rời xa nữa. Nói lên cái mong ước ấy lý trí nhà thơ không phải không biết nó khó như đi lên trời, ước mong không bao giờ trở thành hiện thực. Nhưng có lẽ vì nỗi đau mất mẹ quá lớn, bao trùm cả tâm trí nên nhà thơ vẫn cứ thốt lên như vậy để cho thỏa những nỗi niềm thương nhớ.

Cái nỗi đau xót ấy chúng ta dễ dàng nhận ra trong cách sử dụng từ ngữ và cách điệp từ (lặp từ) ở trong đoạn thơ. Trước tiên là từ “xin”. Trong toàn bài thơ từ này được dùng đến ba lần, riêng trong đoạn thơ được lặp lại hai lần. Việc lặp từ này kết hợp với kiểu câu cầu khiến làm cho cái sự cầu mong, ước mơ của nhà thơ được thể hiện một cách cháy bỏng, tha thiết.

Thứ hai là cụm từ, các từ: “một lần”, “cuối”, “về”. Cụm từ “một lần” và từ “cuối” lặp lại ba lần có tác dụng nhấn mạnh cái ước muốn cháy bỏng của nhà thơ. Đặc biệt việc lặp từ ấy kết hợp với dấu chấm lửng và cách ngắt nhịp 3/ 3/ 2 trong câu thơ: “Một lần cuối... một lần về cuối thôi” còn gợi lên cái âm điệu khắc khoải, mong mỏi, đợi chờ đến tột cùng trong nỗi lòng của người con.

Thứ ba là từ “về”. Trong bài thơ từ này được nhắc đến năm lần, riêng trong phần hai là bốn lần. Đáng chú ý, từ “về” trong phần hai của bài thơ được nhà thơ cho đi kèm với các từ “quê” (về quê), “thương” (về thương), “buồn” (về buồn) để gợi lên trong lòng người đọc một trường nghĩa mới ngoài nét nghĩa nhấn mạnh mong ước mẹ trở về “một lần cuối”. “Về thương lại bến sông trôi” cũng vẫn là về quê nhưng “Về buồn lại đã một đời tóc xanh” thì không chỉ là về quê nữa mà gợi lên cuộc đời vất vả gian truân của mẹ. Hình ảnh hoán dụ “một đời tóc xanh” là chỉ thời tuổi trẻ vất vả, lam lũ của mẹ ở nơi quê nhà. Hình ảnh ấy đi cùng với chữ “trôi” ở trong câu thơ “Về thương lại bến sông trôi” gợi lên hình ảnh những năm tháng vất vả, chìm nổi của mẹ ở cái thời “tóc xanh”. Hai chữ “thương”, “buồn” ở đây được dùng thật đắc địa. Nó vừa diễn tả được cuộc đời gian khổ khi tuổi trẻ của mẹ vừa gợi tả được sự thấu hiểu, thương xót trong lòng của người con.

Ngoài nghệ thuật điệp từ ra, phần thứ hai của bài thơ còn sử dụng những thi ảnh thuần Việt, theo nếp nghĩ của người Việt, của làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ. Đó là hình ảnh “Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha”, “Cây cau cũ, giại hiên nhà”. Trong nếp cảm, nếp nghĩ của nhà thơ nghĩa phu thê của cha mẹ không thể tách rời nhau, người vợ bao giờ cũng nương tựa người chồng. Bởi vậy mẹ có về với cha ở thế giới bên kia thì vẫn được cha đón đợi, che chở. Có thể nói đây là một mối quan hệ tình cảm - đạo đức rất đẹp, một nét đẹp của làng quê Việt Nam, của văn hóa Việt Nam.

Ngoài ra hai hình ảnh mang tính biểu tượng nữa của làng quê là “cây cau” và “giại hiên nhà” (tấm bình phong làm bằng tre dựng trước hiên nhà ở làng quê) nhằm tô đậm cái không gian làng quê, nơi mẹ từng gắn bó. Đó cũng là không gian ngày xưa của gia đình nhà thơ, một không gian thuần Việt. Bởi vậy bài thơ nói về mẹ nhưng cũng là nhắc đến quê hương. Tác phẩm thể hiện nỗi lòng đau đớn, xót xa của người con khi mất mẹ nhưng cũng là thể hiện sự gắn bó sâu nặng, đầy ân tình của nhà thơ với quê hương. Cái làng quê ấy gắn bó, chứa đựng cả cuộc đời của mẹ, của gia đình và cả tuổi thơ của nhân vật trữ tình.

Phần cuối của bài thơ là cặp lục bát cuối cùng. Ở cặp thơ này, một lần nữa, nhà thơ lặp lại từ “xin” và cụm từ “một lần” để khắc họa cái đau, nỗi niềm thống thiết của người con khi mẹ mất. Ước mong, cầu khẩn, van nài của con càng vô vọng thì tiếng lòng xót xa càng tức tưởi. Người con chỉ cầu xin “ngắn lại đường gần” để cho “Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi…” nhưng cũng bất thành. Ngoài nghệ thuật điệp từ ra câu thơ còn sử dụng hai dấu chấm lửng để diễn tả cái âm điệu khắc khoải, giống như tiếng nấc của người con. Nó như nhỏ dần, rồi lịm đi và chìm hẳn vào trong không gian yên lặng.

Có thể nói, phần cuối của bài thơ đã thể hiện được đỉnh điểm nỗi đau mẹ mất của nhà thơ. Nỗi đau ấy như quặn thắt tâm can, chạm vào linh giác của người đọc, làm thổn thức và gợi lên bao nỗi niềm rưng rưng, đồng cảm.

“Bờ sông vẫn gió” có thể nói là bài thơ rất giản dị, từ tứ thơ đến cấu trúc bài thơ; mẹ không còn ở trên thế gian nhưng mọi cảnh vật gắn bó với mẹ vẫn còn nguyên đây, xin mẹ một lần trở về, chỉ một lần thôi, rồi mẹ hãy đi ... Vậy thôi, giản dị nhưng không hề đơn giản. Trúc Thông đề cập tới nỗi đau thương lớn nhất của đời người (mẹ mất) không phải chỉ bằng nhịp điệu hay câu chữ uyển chuyển của thể thơ mà ở sự chân thành của tình thơ trong âm điệu buồn thương nhưng ngời sáng lung linh của tình mẫu tử.

Cái mong ước giản dị của người con biết không thể nào thực hiện được, dù cố nài nỉ cũng không được thì nỗi đau lại càng được nhân lên gấp bội. Bởi thế nỗi thương đau trong bài thơ cứ như tràn ra cả ngoài câu chữ. Cho nên không phải không có lý khi cho rằng đây là một trong những bài thơ khóc mẹ hay nhất trong thơ Việt. Còn riêng với Trúc Thông thì “Bờ sông vẫn gió” không chỉ hay đâu mà còn rất lạ. Và đây cũng là một đóng góp của nhà thơ vào kho tàng thi ca lục bát nước nhà.

Đào Thị Thu Hiền

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/bo-song-van-gio-nguoi-khong-thay-ve-a29704.html
Zalo