Bỏ phố lên rừng, 'Kiên nông dân' đồng hành cùng dân bản gìn giữ văn hóa trà Shan Tuyết ở Tà Xùa
Thay vì xây dựng vùng nguyên liệu riêng, anh Kiên lựa chọn đồng hành và hướng dẫn bà con dân bản nâng cao kỹ năng sản xuất, tạo thêm sinh kế bền vững.
Xã Tà Xùa (tỉnh Sơn La) từng là vùng đất hoang sơ, được người H'mông gọi là "sân phơi thuốc" vì có đặc sản chè Shan Tuyết cổ thụ, nổi tiếng với khí hậu quanh năm mây phủ, đỉnh núi cao và "sống lưng khủng long" hùng vĩ.
Trà Tà Xùa được biết đến nhiều nhất với dòng trà Shan Tuyết cổ thụ, thu hái từ những cây chè hàng trăm năm tuổi sinh trưởng tự nhiên trên vùng núi cao hơn 1.500m. Với đồng bào H’Mông nơi đây, làm trà không chỉ là sinh kế mà còn là tập quán canh tác gắn với núi rừng và khát vọng vươn lên từ chính cây chè quê hương.
Giữa làn khói trà quyện hương núi rừng, anh Nguyễn Thành Kiên - người từng gắn bó với nhịp sống phố phường Hà Nội nay lặng lẽ bên những mẻ trà Shan Tuyết cổ thụ với vai trò chủ Tiệm trà “Kiên nông dân”. Anh chọn lên non cao không chỉ để giữ lửa nghề sao trà thủ công khỏi mai một mà còn mong tạo sinh kế bền vững, góp phần đổi thay đời sống của bà con dân bản.
Trong tiến trình đó, Ủy ban Nhân dân xã Tà Xùa, tỉnh Sơn La đã chủ động tạo điều kiện kết nối, gửi lời mời và giới thiệu các cá nhân tại địa phương, trong đó có anh Kiên và tiệm trà của anh cùng tham gia các chương trình hợp tác văn hóa - du lịch. Đồng thời, địa phương cũng đẩy mạnh các hoạt động quảng bá nhằm thúc đẩy nét đẹp văn hóa của Tà Xùa tới đông đảo công chúng và giúp người dân xây dựng mô hình kinh doanh ổn định, lâu dài.
Đồng hành với hơn 20 hộ dân gìn giữ bản sắc trà Shan Tuyết cổ thụ
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, anh Nguyễn Thành Kiên cho biết, xuất phát từ niềm đam mê xê dịch và mong muốn tìm hiểu văn hóa trên khắp các vùng miền đất nước, ngay từ thời sinh viên, anh đã theo chân các bậc tiền bối, thầy cô và bạn bè thực hiện nhiều chuyến điền dã, đặc biệt tại khu vực miền núi phía Bắc.
Trong cơ duyên đó, anh đến Tà Xùa, theo bạn bè về bản và dần bị cuốn hút bởi câu chuyện làm trà của đồng bào H’mông nơi đây. Đứng trước nguy cơ mai một của thức trà cổ thụ được sao thủ công bằng chảo gang trên bếp củi, anh không khỏi trăn trở. Từ sự tiếc nuối ấy, anh Kiên bắt đầu mày mò thực hành, từng bước khôi phục, duy trì và lan tỏa câu chuyện văn hóa làm trà với mong muốn thức trà truyền thống này không bị biến mất.
Những năm đầu tự mày mò làm trà đã đặt ra không ít thách thức khi anh Nguyễn Thành Kiên phải liên tục di chuyển hàng trăm ki-lô-mét từ Thủ đô lên bản mỗi mùa trà, trong khi vẫn duy trì công việc khác dưới thành phố. Anh tự mình vào rừng hái trà, trực tiếp thực hành từng công đoạn chế biến để dần thuần thục kỹ thuật, qua đó bồi đắp và làm dày hơn câu chuyện về trà Tà Xùa. Hành trình ấy bền bỉ kéo dài suốt nhiều năm.
Khi dịch Covid-19 bùng phát, anh Kiên quyết định ở lại bản để dành thời gian hòa nhập đời sống cùng đồng bào; đồng thời tập trung sản xuất trà theo hướng tích cực với sản lượng từng bước tăng lên. Sau dịch, anh xây dựng một xưởng trà thủ công quy mô nhỏ, duy trì câu chuyện trà Shan Tuyết cổ thụ sao tay của bà con Tà Xùa và từng bước tạo ra những hiệu quả nhất định cho cộng đồng địa phương.

Người dân bản địa là lực lượng lao động nòng cốt, trực tiếp đảm nhiệm công đoạn sao trà thủ công bằng chảo tại xưởng sản xuất. Ảnh: NVCC.
Thay vì tự phát triển vùng nguyên liệu riêng, anh Kiên chọn cách thu mua trà trực tiếp từ người dân địa phương. Trà Shan Tuyết cổ thụ Tà Xùa mỗi năm có hai vụ chính là vụ Xuân và vụ Thu. Vào mùa thu hoạch, anh gần như thu mua sản phẩm của tất cả các hộ dân trong bản; trong đó, có khoảng 20 hộ gắn bó thường xuyên với sản lượng ổn định.
Trân trọng giá trị của những cây trà cổ thụ hàng trăm năm tuổi, anh Kiên luôn duy trì mức giá thu mua cao, tương xứng với chất lượng và công sức của người hái để bà con yên tâm gìn giữ cây trà và tuân thủ quy trình thu hái nghiêm ngặt. Nếu như thời điểm mới bắt đầu làm trà, giá thu mua chỉ khoảng 50-60 nghìn đồng/kg trà tươi thì nay đã tăng lên từ 150-200 nghìn đồng/kg. Theo anh Kiên, đây là sự điều chỉnh tích cực, phù hợp với giá trị văn hóa và kinh tế mà trà Shan Tuyết mang lại.
“Nguồn nguyên liệu mà tôi lựa chọn chủ yếu là trà Shan Tuyết cổ thụ - những cây trà hàng trăm năm tuổi nằm trong các quần thể cổ thụ quanh bản làng, thuộc quyền sở hữu của người dân và đã được họ gìn giữ qua nhiều thế hệ. Bên cạnh đó, các nương trà, vườn trà Shan Tuyết do bà con trồng từ vài năm đến hàng chục năm cũng là nguồn nguyên liệu giữ vai trò quan trọng trong sản xuất.
Thay vì xây dựng vùng nguyên liệu riêng, tôi tôn trọng quyền sở hữu bản địa, lựa chọn đồng hành và cùng thực hành với dân bản để chính bà con trực tiếp nâng cao kỹ năng sản xuất, làm tốt hơn từng công đoạn và thêm trân quý thứ tài sản quý giá đã gắn bó với bản làng suốt bao đời”, anh Nguyễn Thành Kiên cho hay.
Việc thu mua và chế biến trà không gặp quá nhiều trở ngại, bởi anh Kiên đã có thời gian dài thích nghi với đời sống dân sinh và sản xuất trà cùng bà con. Tuy nhiên, thách thức lớn nằm ở việc thay đổi tập quán thu hái búp trà theo yêu cầu kỹ thuật.
Theo anh Kiên, người dân nơi đây chủ yếu thu hái trà dựa trên kinh nghiệm và cảm quan cá nhân, chưa hình thành được quy chuẩn chung trong sản xuất. Cùng với đó, việc chia sẻ, hướng dẫn kỹ thuật chế biến các dòng trà mới cũng gặp nhiều trở ngại, bởi suốt nhiều năm, bà con chỉ quen làm một thức trà truyền thống là trà xanh.

Anh Nguyễn Thành Kiên (ngoài cùng bên phải) chia sẻ cách phân loại và chọn lọc nguyên liệu trà tươi cho các em nhỏ trong bản tại Tà Xùa. Ảnh: NVCC.
Từ quá trình tự thực hành và tích lũy kinh nghiệm, anh từng bước chia sẻ thêm với bà con các kỹ thuật chế biến những dòng trà khác như hoàng trà, hồng trà, nụ hoa trà hay các dòng trà kết hợp, nhằm gia tăng giá trị cho cây trà cổ thụ; đồng thời, giúp sản phẩm trà của Tà Xùa trở nên phong phú hơn khi giới thiệu tới thị trường. Bên cạnh những giá trị về kinh tế, anh đã giúp cho bà con nông dân vững tin, tiếp tục gắn bó với đặc sản trà quê hương.
Việc làm trà thủ công sao củi trên chảo gang truyền thống hoàn toàn khác với sản xuất bằng lồng quay hay máy móc công nghiệp. Công việc này đòi hỏi sức khỏe bền bỉ, sự cần cù, khả năng cảm nhiệt và chủ động ở từng công đoạn.
“Có những mẻ trà như thể chọn người làm, bởi để sao thuần thục một mẻ trà chảo đòi hỏi rất nhiều tâm sức, sự kiên nhẫn trong cả quá trình hướng dẫn lẫn học hỏi. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, các yêu cầu kỹ thuật được đặt ra ngay từ khâu thu hái như hái trà vào buổi sớm, tránh nắng gắt; thu hái đúng tiêu chuẩn một tôm một hoặc hai lá; dụng cụ đựng trà tươi phải thông thoáng, vận chuyển theo từng ca để tránh dập nát. Các công đoạn chế biến và bảo quản sau đó cũng cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản.
Sau thời gian hợp tác và thực hành, nhiều hộ dân đã dần thay đổi tư duy, chuyển từ cách thu hái, chế biến mang tính tự phát sang làm trà có định hướng, chú trọng hơn đến chất lượng và giá trị lâu dài của sản phẩm.
Tôi hy vọng rằng việc hợp tác, đồng hành cùng người dân không chỉ góp phần bảo tồn nghề trà truyền thống mà còn giúp bà con từng bước nâng cao thu nhập từ cây trà cổ thụ, qua đó hình thành sinh kế bền vững ngay trên chính mảnh đất quê hương”, anh Kiên bày tỏ.
Mở rộng mô hình quảng bá trải nghiệm văn hóa và du lịch địa phương
Từ những mẻ trà sao tay bên bếp lửa đến câu chuyện liên kết sinh kế cho đồng bào vùng cao, anh Nguyễn Thành Kiên cho rằng, bản thân chỉ là một cá nhân nhỏ trong câu chuyện liên kết nhằm thúc đẩy văn hóa và cải thiện đời sống dân sinh thông qua cây trà.
Không chỉ là vùng trà đặc sắc thuộc “tứ đại danh trà” của Việt Nam, Tà Xùa những năm gần đây còn trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn. Việc kết hợp giữa sản xuất trà, gìn giữ và quảng bá văn hóa trà với phát triển du lịch đang từng bước góp phần cải thiện đời sống của bà con dân bản theo hướng tích cực, bền vững hơn.

Khách du lịch tham quan, trải nghiệm sao trà thủ công trên chảo dưới sự hướng dẫn của người dân địa phương. Ảnh: NVCC.
Trong khoảng hai năm trở lại đây, bên cạnh việc duy trì xưởng sản xuất và tiêu thụ trà Shan Tuyết cổ thụ theo phương pháp thủ công truyền thống, anh Nguyễn Thành Kiên còn xây dựng mô hình tiệm trà theo hướng kết hợp giữa sản xuất và giới thiệu câu chuyện về trà ngay trên bản cao Tà Xùa.
Theo anh, tiệm trà không đơn thuần là điểm dừng chân để du khách thưởng trà mà còn là không gian trải nghiệm, du khách được trực tiếp tham gia vào quá trình làm trà thông qua các tour thực tế tại bản. Du khách được ở cùng bà con, cùng lên nương hái trà, tự tay sao trà, thưởng trà và qua đó hiểu rõ hơn về cây trà, về giá trị văn hóa gắn bó lâu đời của trà với đời sống đồng bào H'mông.
Theo anh Kiên, việc kết hợp văn hóa trà với du lịch và các lĩnh vực sáng tạo khác đã mang lại hiệu quả rõ nét trong việc lan tỏa câu chuyện trà, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm tới đông đảo công chúng và khách hàng, đồng thời tạo thêm nguồn thu nhập cho bà con địa phương. Mục tiêu của anh là kể câu chuyện trà theo cách gần gũi, chân thực hơn, đưa trà Tà Xùa đến với nhiều nhóm khách hàng khác nhau thông qua chính những trải nghiệm mà du khách được sống cùng cây trà và con người nơi đây.
































