Bỏ đình chỉ học sinh, viết kiểm điểm có đủ sức răn đe?

Bộ GD&ĐT chính thức bỏ quy định đình chỉ học sinh, chỉ giữ mức viết kiểm điểm. Nội dung mới này 'nóng' dư luận về tính nhân văn và hiệu quả thực tiễn.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 19/2025/TT-BGDDT Quy định về khen thưởng và kỷ luật học sinh (Thông tư số 19). Thông tư có hiệu lực từ 31/10/2025 này đã chính thức bãi bỏ hình thức đình chỉ học tập có thời hạn. Theo quy định mới, hình thức kỷ luật cao nhất với học sinh chỉ còn là viết bản kiểm điểm. Quy định này thu hút sự chú ý của dư luận với những tranh luận trái chiều.

 Thầy giáo Trần Mạnh Tùng. Ảnh: NVCC.

Thầy giáo Trần Mạnh Tùng. Ảnh: NVCC.

Trao đổi với Tri thức và Cuộc sống, ông Trần Mạnh Tùng, giáo viên dạy Toán ở Hà Nội đánh giá, việc bãi bỏ hình thức đình chỉ học tập có thời hạn là một bước tiến mang tính cách mạng trong giáo dục. Tuy nhiên, ông bày tỏ băn khoăn: "Quy định này liệu có đang đi trước thực tế quá xa?”.

Nguy cơ “lợi bất cập hại” từ chính sách nhân văn?

Ông Trần Mạnh Tùng cho hay, việc loại bỏ hình phạt đình chỉ học sinh là một triết lý giáo dục hiện đại, đặt trọng tâm vào việc giúp đỡ và giáo dục thay vì trừng phạt và cô lập. Chính sách này hướng tới mục tiêu giữ học sinh trong môi trường học đường để các em có cơ hội được hỗ trợ và sửa chữa lỗi lầm.

Thay vì đẩy học sinh ra khỏi trường, các biện pháp thay thế như tư vấn tâm lý, lao động công ích, hay các buổi làm việc riêng với giáo viên sẽ giúp các em nhận ra sai lầm của mình, đồng thời phát triển ý thức trách nhiệm và kỹ năng giải quyết vấn đề.

“Quan điểm này dựa trên những bằng chứng từ các nước phát triển, nơi hình thức đình chỉ học sinh đã được chứng minh là có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực, như tăng nguy cơ bỏ học, tạo tâm lý cô lập, và làm gián đoạn quá trình tiếp thu kiến thức”, ông Tùng cho hay.

Tuy nhiên, theo ông Tùng, trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, chính sách này đang bộc lộ những hạn chế lớn, khiến cho sự "nhân văn" này trở nên “nửa vời” và có nguy cơ lợi bất cập hại.

Lý do thứ nhất, theo ông Tùng, một “điểm yếu chí tử”, đó là chúng ta đang thiếu hụt nguồn lực hỗ trợ toàn diện. Ở các quốc gia phát triển, việc bỏ kỷ luật nặng đi kèm với một hệ thống hỗ trợ toàn diện, từ đội ngũ chuyên gia tâm lý học đường đến các trung tâm tư vấn bên ngoài.

Ở nước ta, hiện gần như không có lực lượng này. Một giáo viên chủ nhiệm, với sĩ số lớp học lên tới 45-50 học sinh, không thể có đủ thời gian, chuyên môn và sự tập trung để can thiệp hiệu quả vào từng trường hợp cá biệt. Đây chính là rào cản lớn nhất, khiến chính sách tiến bộ không thể phát huy hiệu quả.

Lý do thứ hai, theo ông Tùng, là sự thiếu hiệu quả của các biện pháp thay thế. Hình thức "viết bản kiểm điểm" được xem là kỷ luật cao nhất, nhưng lại thiếu tính răn đe.

Đối với những học sinh cá biệt, vốn đã quen với những vi phạm, hình thức này gần như vô tác dụng. Khi không có hậu quả rõ ràng, các em dễ hình thành tâm lý "nhờn luật" và tiếp tục tái phạm. Điều này không chỉ gây áp lực và căng thẳng cực độ cho giáo viên, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng học tập và sự an toàn của cả tập thể.

Lý do thứ 3, ông Tùng cho rằng, sẽ tác động tiêu cực đến môi trường giáo dục . Một môi trường giáo dục thiếu kỷ luật đủ mạnh có thể gây ra sự bất công. Những học sinh nghiêm túc, tuân thủ quy tắc cảm thấy không được bảo vệ khỏi hành vi tiêu cực của bạn bè, dần mất đi niềm tin vào sự công bằng trong nhà trường. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến động lực học tập mà còn gây nguy hại cho việc hình thành nhân cách của các em.

Cần chuyển dịch một cách thận trọng

Để chính sách "nhân văn" thực sự phát huy hiệu quả, ông Tùng cho rằng, Bộ GD&ĐT cần có một lộ trình cụ thể và chuẩn bị các nguồn lực hỗ trợ cần thiết.

Theo đó, Bộ GD&ĐT cần thí điểm trước khi áp dụng đại trà: Hãy chọn một số trường có điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên tốt để thí điểm mô hình mới. Sau đó, đánh giá hiệu quả và nhân rộng khi đã có đủ kinh nghiệm và nguồn lực.

 Học sinh Trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên (ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội) trong ngày Khai giảng. Ảnh: Mai Loan.

Học sinh Trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên (ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội) trong ngày Khai giảng. Ảnh: Mai Loan.

Cùng với đó, xây dựng hệ thống tư vấn tâm lý. Bổ sung các chuyên gia tâm lý học đường chuyên nghiệp. Tỷ lệ lý tưởng là một chuyên viên tâm lý cho mỗi 500-800 học sinh. Đồng thời, cần xây dựng các trung tâm tư vấn công lập ở cấp phường/xã để hỗ trợ các trường hợp phức tạp hơn.

Tiếp tục giảm sĩ số lớp học. Đây là giải pháp cốt lõi để giáo viên có thể thực sự quan tâm và giáo dục từng học sinh.

Nâng cao vai trò của gia đình và xã hội. Giáo dục học sinh là trách nhiệm của toàn xã hội. Chính sách cần đi kèm với các biện pháp tăng cường phối hợp giữa nhà trường và gia đình, đồng thời thúc đẩy một xã hội văn minh, thượng tôn pháp luật.

Cuối cùng, để thầy ra thầy, trò ra trò, riêng ngành giáo dục không thể làm được. “Câu chuyện bỏ đình chỉ học sinh không chỉ là câu chuyện của ngành, mà còn là bài toán chung cần sự chung tay của toàn xã hội. Nếu không, sự "nhân văn" này có thể sẽ chỉ là một ý tưởng đẹp trên giấy, và chính học sinh sẽ là những người chịu thiệt thòi”, ông Tùng nhấn mạnh.

Mai Loan

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/bo-dinh-chi-hoc-sinh-viet-kiem-diem-co-du-suc-ran-de-post1570959.html