Bộ đệm dự phòng rủi ro của các ngân hàng 'mỏng' dần
Tăng trưởng tín dụng mạnh đang song hành với áp lực chất lượng tài sản, đặc biệt là nợ nhóm 3 - 4 tiếp tục phình to. Trong khi đó, bộ đệm dự phòng rủi ro của nhà băng lại mỏng dần, tiềm ẩn rủi ro khi thị trường và kinh tế vĩ mô biến động.
Thống kê từ 27 ngân hàng niêm yết cho thấy, đến cuối quý II/2025, nợ xấu gia tăng khi tổng nợ xấu (nợ nhóm 3 - 5) lên tới 267,53 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3%, khiến tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay khách hàng nhích nhẹ từ 1,9% lên 1,97%, phản ánh áp lực chất lượng tài sản đang lớn dần.
Mặc dù nợ xấu có xu hướng tăng, song nhiều ngân hàng lạu giảm trích lập dự phòng rủi ro nhằm hạn chế ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận trong 6 tháng đầu năm 2025, khiến “bộ đệm” dự phòng rủi ro mỏng dần.
Đáng lo cả về quy mô và cơ cấu nợ
Không chỉ tăng về quy mô, cơ cấu nợ xấu cũng cho thấy xu hướng xấu đi. Nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) tăng mạnh nhất với 26,9%, tiếp theo là nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng 22%, và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) tăng 10,5%, hiện chiếm gần 55% tổng nợ xấu. Đây là dấu hiệu cho thấy một phần nợ xấu mới phát sinh đã nhanh chóng dịch chuyển sang nhóm rủi ro cao nhất.
Nhóm ngân hàng có tốc độ tăng nợ xấu mạnh nhất là: PGBank tăng 0,76% so với đầu năm; BVBank tăng 0,74%; BIDV tăng 0,57%; HDBank tăng 0,56%; Saigonbank tăng 0,55%; Nam A Bank tăng 0,52%...
Ở chiều ngược lại, chỉ có 4 ngân hàng giảm quy mô nợ xấu trong quý II/2025 là ACB, VietABank, ABBank và NCB.

Mặc dù nợ xấu có xu hướng tăng, song nhiều ngân hàng lại giảm trích lập dự phòng rủi ro.
Tỷ lệ nợ xấu được khuyến nghị dưới 3% là ngưỡng an toàn. Tính đến 30/6/2025, có tới 21 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, trong đó có 12 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu dưới 2% gồm: Vietcombank (1%), Viet A Bank (1,11%), Bac A Bank (1,25%), ACB (1,28%), VietinBank (1,31%), Techcombank (1,32%), Agribank (1,43%), MB (1,6%), LPBank (1,74%), SeABank (1,95%), KienLong Bank (1,96%) và BIDV (1,98%).
Nhóm ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% gồm: Saigonbank (3,21%), PGBank (3,33%), BaoVietBank (3,70%), BVBank (3,83%), VIB (3,56%), VPBank (3,97%), OCB (3,52%) và NCB (11,35%).
Có thể nói, chất lượng tài sản của nhiều ngân hàng suy giảm khi tỷ lệ nợ xấu gia tăng, trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu (số dư dự phòng/số dư nợ xấu) thấp hơn trước. Cụ thể, tổng dự phòng rủi ro toàn ngành chỉ tăng nhẹ 3,2%, đạt 213,4 nghìn tỷ đồng, kết quả là tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) giảm từ 89,9% cuối năm 2024 xuống còn 79,8%.
Hiện chỉ còn một số ít ngân hàng duy trì LLR trên 100% gồm: Vietcombank, VietinBank, Techcombank và BacABank, còn BIDV đã rời nhóm này khi giảm từ 131% hồi đầu năm xuống 89,1% vào cuối quý II.
Đáng chú ý, mặc dù vẫn còn duy trì được LLR trên 100% nhưng trong 6 tháng đầu năm, VietinBank, Techcombank cũng giảm từ 5-40 điểm phần trăm LLR so với cuối năm trước.
Các nhà băng có tỷ lệ nợ xấu dưới 2% như Bac A Bank, ACB, Techcombank, VietinBank, MB… có LLR trên 80%. Trong khi đó, nhóm chịu áp lực lớn duy trì tỷ lệ nợ xấu trên 3% như Saigonbank, PGBank, BaoVietBank, BVBank, VIB, VPBank, OCB có LLR dưới 70%.
Nhìn chung, bộ đệm dự phòng của ngành ngân hàng không còn dày và có sự phân hóa rõ nét giữa các nhà băng. Ngân hàng tư nhân quy mô nhỏ có bộ đệm dự phòng thấp hơn nhóm ngân hàng có vốn nhà nước chi phối.
Việc dự phòng gia tăng chậm hơn nhiều so với đà phình to của nợ xấu khiến rủi ro xử lý nợ trong nửa cuối năm trở nên khó khăn hơn, đặc biệt nếu chất lượng tín dụng tiếp tục xấu đi.
Kỳ vọng cải thiện vào cuối năm
Mặc dù tổng nợ xấu của toàn hệ thống tăng trong nửa đầu năm, nhưng nợ xấu được kỳ vọng sẽ giảm vào cuối năm, sau khi dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 chính thức được thông qua tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV. Theo đó, từ ngày 1/8/2025, việc luật hóa Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu được kỳ vọng giúp đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt hỗ trợ các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao như VPBank, VIB, SHB, Sacombank, TPBank, BIDV, VietinBank trong việc thu giữ, thanh lý tài sản đảm bảo và cải thiện lợi nhuận.
Chuyên gia Yuanta Việt Nam kỳ vọng, chất lượng tài sản ngành ngân hàng sẽ cải thiện từ nửa cuối năm 2025, nhờ sự phục hồi dần của thị trường bất động sản. Các chính sách thúc đẩy đầu tư công, tháo gỡ vướng mắc pháp lý và việc sáp nhập địa giới hành chính sẽ hỗ trợ tích cực cho thị trường bất động sản, giúp giảm áp lực nợ xấu và gánh nặng trích lập dự phòng cho các ngân hàng.
Đồng quan điểm, SSI dự báo, các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tài sản ngành ngân hàng sẽ dần được cải thiện trong môi trường lãi suất được duy trì ở mức thấp, cùng với các phương án hỗ trợ và cơ cấu nợ cho khách hàng từ phía ngân hàng.
Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng hiệu quả sẽ phụ thuộc vào việc triển khai thực tế và sự hợp tác của các bên liên quan.
Với bối cảnh kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro, những ngân hàng duy trì tỷ lệ nợ xấu thấp và LLR cao sẽ có lợi thế cạnh tranh, không chỉ trong việc đảm bảo an toàn vốn, mà còn trong khả năng mở rộng tín dụng khi thị trường phục hồi. Ngược lại, những ngân hàng có bộ đệm mỏng sẽ cần thận trọng hơn trong chiến lược tăng trưởng để tránh áp lực thanh khoản và lợi nhuận.
Tại báo cáo cập nhật ngành ngân hàng mới nhất, VIS Rating dự báo rủi ro tài sản toàn ngành sẽ dần ổn định trong nửa cuối năm, đặc biệt đối với các ngân hàng lớn và ngân hàng gốc quốc doanh, nhờ vào sự phục hồi của thị trường bất động sản.
Trong quý II/2025, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành đã cải thiện 20 điểm cơ bản so với quý trước, đạt mức 2,3%. VIS Rating chỉ ra rằng khả năng trả nợ của khách hàng doanh nghiệp đã được cải thiện tại các ngân hàng ACB và VietinBank, trong khi VPBank và MB ghi nhận tỷ lệ nợ quá hạn cho vay mua nhà giảm nhờ giải quyết pháp lý cho các dự án của chủ đầu tư bất động sản.