Biên soạn SGK tiếng dân tộc thiểu số: Cầu nối tri thức và bản sắc
Việc biên soạn sách giáo khoa (SGK) tiếng dân tộc thiểu số là hành trình nhiều gian nan nhưng đầy tự hào.

SGK tiếng các dân tộc của NXB Giáo dục Việt Nam.
Trong nền giáo dục Việt Nam, sách giáo khoa (SGK) không chỉ là công cụ truyền tải tri thức mà còn là cầu nối văn hóa, ngôn ngữ giữa các thế hệ. Với cộng đồng các dân tộc thiểu số, việc được học tập bằng chính tiếng mẹ đẻ mang ý nghĩa đặc biệt không chỉ về mặt giáo dục mà còn là sự khẳng định bản sắc, lòng tự hào và quyền được phát triển bình đẳng của mỗi dân tộc.
Đòi hỏi sự kiên trì, tâm huyết
Việc biên soạn SGK tiếng dân tộc thiểu số vô cùng công phu, đòi hỏi sự kiên trì, tâm huyết và am hiểu sâu sắc về ngôn ngữ, văn hóa của từng vùng miền.

PGS. TS. Nguyễn Văn Tùng - Thành viên Hội đồng thành viên, Phó Tổng Biên tập NXB Giáo dục Việt Nam.
Hầu hết các ngôn ngữ dân tộc thiểu số đều có hệ thống chữ viết chưa hoàn chỉnh hoặc còn nhiều biến thể địa phương. Bởi thế, các nhà nghiên cứu, tác giả và biên tập viên phải làm việc sát sao với chính quyền địa phương, với các già làng, nghệ nhân ngôn ngữ và người dân bản địa để thống nhất cách dùng từ, cách phát âm, cách viết vừa khoa học, vừa gần gũi. Mỗi con chữ, cấu trúc câu đều được cân nhắc kỹ lưỡng để học sinh có thể tiếp nhận dễ dàng, mà vẫn giữ được tinh thần và nhịp điệu của tiếng mẹ đẻ.
Khó khăn không chỉ nằm ở ngôn ngữ mà còn ở nội dung truyền tải. SGK tiếng dân tộc phải vừa đáp ứng yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông, vừa giữ gìn bản sắc văn hóa. Người biên soạn phải tìm cách diễn đạt những khái niệm khoa học, xã hội bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống vùng cao, vùng sâu nhưng vẫn bảo đảm tính chính xác.
Vượt lên những trở ngại ấy là giá trị đặc biệt sâu sắc của công việc này. Việc biên soạn SGK tiếng dân tộc thiểu số thể hiện rõ nét sự nhất quán trong chủ trương của Đảng và Nhà nước: “Không để học sinh nào bị bỏ lại phía sau”. Đó là chính sách nhân văn hướng tới bình đẳng trong giáo dục – nơi mọi trẻ em, dù sinh ra ở miền xuôi hay miền ngược, đều có quyền được học, phát triển bằng chính tiếng nói và văn hóa của dân tộc mình.
Hơi thở của văn hóa
Nếu SGK là cánh cửa mở ra tri thức, thì SGK tiếng dân tộc thiểu số còn mở ra thế giới tâm hồn và bản sắc cộng đồng. Mỗi trang sách không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn gìn giữ hơi thở văn hóa, giúp học sinh tiếp thu tri thức, nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc và ý thức gìn giữ truyền thống trong dòng chảy hội nhập.
Chính vì thế, mỗi bộ SGK tiếng dân tộc thiểu số không chỉ là một sản phẩm xuất bản, mà là công trình văn hóa – giáo dục đặc biệt. Nó kết tinh trí tuệ, tâm huyết của nhiều thế hệ làm giáo dục, đồng thời góp phần vào công cuộc gìn giữ và phát huy di sản ngôn ngữ của đất nước.
Nói về hành trình đặc biệt ấy, PGS. TS. Nguyễn Văn Tùng, Thành viên Hội đồng thành viên, Phó Tổng Biên tập NXB Giáo dục Việt Nam chia sẻ, biên soạn SGK tiếng dân tộc là hành trình nhiều gian nan nhưng đầy tự hào. “Trong quá trình biên soạn, NXB Giáo dục Việt Nam có lợi thế là đã tích lũy được bề dày kinh nghiệm hơn hai thập kỷ. Chúng tôi có đội ngũ chuyên môn giàu năng lực, am hiểu kỹ thuật xuất bản hiện đại và đặc thù văn hóa vùng dân tộc. Nhiều biên tập viên, họa sĩ, nhân viên thiết kế đã gắn bó nhiều năm với mảng sách đặc thù này. Chính yếu tố con người là lợi thế lớn nhất, giúp chúng tôi triển khai nhanh và bảo đảm chất lượng từng bộ sách”, ông Nguyễn Văn Tùng cho biết.
Khối lượng công việc mà đội ngũ biên soạn SGK tiếng dân tộc phải đảm nhận rất lớn. Từ việc thu thập hồ sơ, xây dựng minh chứng, hiệu đính ngôn ngữ, đến trình duyệt và phê duyệt đều tuân theo quy trình nghiêm ngặt. Có giai đoạn, các nhóm biên tập phải chạy đua với thời gian để kịp tiến độ nộp hồ sơ thẩm định cho Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nhưng vượt lên tất cả là niềm tin và trách nhiệm xã hội của những người làm sách: SGK tiếng dân tộc không chỉ giúp học sinh tiếp cận tri thức bằng tiếng mẹ đẻ, mà còn là nhịp cầu gìn giữ văn hóa của từng cộng đồng dân tộc.
“Tôi tin rằng, mỗi bộ sách hoàn thành là một bước tiến trong công cuộc nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc. Nó không chỉ hỗ trợ việc học mà còn khơi dậy niềm tự hào về ngôn ngữ, văn hóa của chính học sinh”, PGS. TS. Nguyễn Văn Tùng nhấn mạnh.
Có thể nói, mọi nỗ lực đều xuất phát từ một niềm tin SGK tiếng dân tộc thiểu số không chỉ giúp học sinh tiếp cận tri thức bằng tiếng mẹ đẻ, mà còn góp phần bảo tồn và phát huy văn hóa của từng cộng đồng dân tộc. Đây là trách nhiệm xã hội đặc biệt mà NXB luôn đặt lên hàng đầu.
Từ năm 2021 đến hết năm 2024, NXB Giáo dục Việt Nam là đơn vị duy nhất được giao nhiệm vụ biên soạn bộ SGK tiếng dân tộc từ lớp Một đến lớp Năm cho tám ngôn ngữ dân tộc thiểu số, gồm: Tiếng Bahnar, Chăm, Ê Đê, Khmer, Jrai, Mnông, Thái và Mông. Tính đến tháng 12/2024, toàn bộ SGK từ lớp Một đến lớp Năm, cùng tài liệu hướng dẫn dạy học, đã hoàn thiện và được phê duyệt.
Đó là kết quả của hàng nghìn giờ lao động thầm lặng, của bao chuyến đi thực tế đến các buôn làng xa xôi, những cuộc trò chuyện với người dân địa phương để hoàn thiện từng từ ngữ, từng nét vẽ minh họa sao cho vừa đúng, vừa đẹp, vừa mang hơi thở văn hóa bản địa.
Không chỉ dừng lại ở việc phát hành sách giấy, NXB Giáo dục Việt Nam còn chủ động ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong biên soạn, nhằm xây dựng kho dữ liệu ngôn ngữ điện tử, số hóa SGK tiếng dân tộc. Nhờ đó, học sinh vùng xa có thể dễ dàng truy cập học liệu qua máy tính, điện thoại, hoặc các thiết bị số do trường học trang bị. Đây là bước đi tiên phong, mở ra cơ hội bình đẳng hơn trong tiếp cận giáo dục cho trẻ em ở vùng sâu, vùng xa – nơi điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế.

Hành trình biên soạn SGK tiếng dân tộc thiểu số của NXB Giáo dục Việt Nam là minh chứng cho nỗ lực xây dựng một nền giáo dục công bằng, toàn diện và nhân văn.
Giữ gìn tiếng nói – Giữ hồn dân tộc
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và giao thoa văn hóa mạnh mẽ, nhiều ngôn ngữ thiểu số đứng trước nguy cơ mai một khi lớp trẻ dần ít sử dụng tiếng mẹ đẻ. Bởi vậy, việc đưa tiếng dân tộc vào trường học, với những bộ SGK bài bản, có hệ thống, không chỉ là chính sách giáo dục mà còn là một hành động văn hóa, một cam kết gìn giữ di sản phi vật thể vô giá của quốc gia.
Mỗi đứa trẻ được học tiếng mẹ đẻ ngay từ những năm đầu đời sẽ biết yêu tiếng nói của cha ông, biết tự hào về nguồn cội, có thêm động lực để vươn lên trong cuộc sống. Những bài học đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ về gia đình, thiên nhiên, về tấm lòng hiếu thảo hay tinh thần đoàn kết chính là sợi dây vô hình gắn kết các em với văn hóa dân tộc mình.
Hành trình biên soạn SGK tiếng dân tộc thiểu số của NXB Giáo dục Việt Nam là minh chứng cho nỗ lực xây dựng một nền giáo dục công bằng, toàn diện và nhân văn – nơi mọi đứa trẻ đều có cơ hội phát triển tiềm năng của mình, dù ở bất cứ vùng miền nào. Đó cũng là sự cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: Giáo dục là quốc sách hàng đầu; phát triển giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường hơn hai thập kỷ, những người làm SGK tiếng dân tộc thiểu số vẫn lặng lẽ tiếp bước với niềm tin rằng, mỗi trang sách đến được tay học sinh là thêm một bước tiến nhỏ trên con đường chinh phục tri thức, gìn giữ văn hóa, lan tỏa yêu thương và niềm tự hào dân tộc.
Biên soạn SGK tiếng dân tộc không chỉ là công việc chuyên môn của một nhà xuất bản, mà là sứ mệnh mang tầm quốc gia, kết nối tri thức với bản sắc, hiện đại với truyền thống, con chữ với tâm hồn. Đó là hành trình thầm lặng nhưng bền bỉ của những người gieo chữ nơi đại ngàn.
Vì thế, mỗi bộ SGK tiếng dân tộc không chỉ là sản phẩm của tri thức, mà còn là biểu tượng của tinh thần nhân văn Việt Nam – nơi mọi tiếng nói đều được lắng nghe, mọi bản sắc đều được trân trọng, mọi đứa trẻ đều có cơ hội lớn lên trong niềm tự hào về nguồn cội của mình.




























