Bệnh não mô cầu: Vì sao có thể gây tử vong trong 24 giờ?
Số ca mắc não mô cầu năm 2025 tăng mạnh so với cùng kỳ, bệnh diễn tiến nhanh, có thể gây tử vong trong 24 giờ nếu không điều trị kịp thời.
Bộ Y tế cho biết năm 2025, cả nước ghi nhận 95 ca mắc bệnh do não mô cầu, trong đó có 3 ca tử vong, tăng 74 ca so với cùng kỳ năm 2024. Riêng tháng 11 ghi nhận 11 ca viêm màng não do não mô cầu.
Đây là một trong 10 bệnh truyền nhiễm có tỉ lệ tử vong cao nhất, có thể lên tới 50% nếu không được điều trị kịp thời, thậm chí khiến người đang khỏe mạnh tử vong chỉ trong vòng 24 giờ.

Nơi điều trị nữ bệnh nhân ở Thanh Hóa tử vong do não mô cầu
Thanh Hóa ghi nhận ca tử vong do viêm não mô cầu
Mới đây, một bệnh nhân nữ sinh năm 1992 điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa đã tử vong do viêm não mô cầu. Bệnh nhân khởi phát với triệu chứng sốt, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, được điều trị tại bệnh xá phân trại trước khi chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa.
Tại đây, người bệnh được xác định mắc viêm màng não mô cầu, cách ly và điều trị tích cực tại Khoa Bệnh nhiệt đới. Tuy nhiên, bệnh diễn biến nặng, bệnh nhân hôn mê sâu, sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng và tử vong đầu tháng 12.
PGS-TS-BS Phạm Quang Thái, Phó trưởng khoa Kiểm soát bệnh truyền nhiễm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, cho biết theo Tổ chức Y tế thế giới, mỗi năm toàn cầu ghi nhận hơn 1,2 triệu ca mắc và khoảng 135.000 ca tử vong do bệnh não mô cầu.
Tại Việt Nam, não mô cầu nằm trong nhóm 10 bệnh truyền nhiễm có tỉ lệ tử vong cao nhất. Thanh thiếu niên và người trưởng thành trẻ tuổi là nhóm có tỉ lệ mang vi khuẩn cao, trở thành nguồn lây tiềm ẩn trong cộng đồng.
Thống kê cho thấy khoảng 5–30% người khỏe mạnh mang vi khuẩn não mô cầu ở vòm họng; con số này có thể tăng lên 70–80% trong các đợt dịch. Bệnh thường gia tăng vào giai đoạn giao mùa đông – xuân, khi điều kiện thời tiết thuận lợi cho vi khuẩn phát triển và lây lan.
Theo PGS Thái, viêm màng não do não mô cầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Neisseria meningitidis gây ra, lây chủ yếu qua đường hô hấp và có khả năng bùng phát thành dịch. Hiện ghi nhận 12 nhóm huyết thanh, trong đó các nhóm A, B, C, W và Y thường gây dịch; riêng nhóm C và W có tỉ lệ tử vong cao hơn.

Bác sĩ xem kết quả soi dịch não tủy phát hiện vi khuẩn não mô cầu
Bệnh có nhiều thể lâm sàng như viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm khớp…, trong đó viêm màng não và nhiễm khuẩn huyết là phổ biến và nguy hiểm nhất. Nguy cơ mắc bệnh cao tại các nơi tập trung đông người như trường học, ký túc xá, doanh trại quân đội, hoặc ở người suy giảm miễn dịch, có bệnh nền.
Nhận biết sớm viêm màng não do não mô cầu
PGS Thái cho biết viêm màng não do não mô cầu có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, song thường gặp nhất ở trẻ dưới 5 tuổi, thanh thiếu niên 14–20 tuổi, người suy giảm miễn dịch và người cao tuổi. Thời gian ủ bệnh trung bình khoảng 4 ngày, dao động từ 2 đến 10 ngày.
Người mắc bệnh thường khởi phát đột ngột với các triệu chứng như sốt cao, đau đầu, cứng cổ, buồn nôn, nhạy cảm với ánh sáng. Trong 4–8 giờ đầu, bệnh dễ bị nhầm với cúm do triệu chứng tương tự, gây khó khăn cho chẩn đoán sớm.
Bệnh có tỉ lệ tử vong cao, lên tới 50% nếu không được điều trị kịp thời. Ngay cả khi qua khỏi, khoảng 20% bệnh nhân vẫn có thể để lại di chứng nặng như điếc, liệt, rối loạn thần kinh hoặc chậm phát triển trí tuệ.

Xét nghiệm dịch não tủy bệnh nhân viêm màng não tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương
Theo các chuyên gia, tiêm vắc-xin là một trong những biện pháp phòng bệnh hiệu quả, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh, hạn chế biến chứng nặng và tử vong. Việc tiêm chủng cũng góp phần làm giảm tỉ lệ người lành mang trùng, qua đó hạn chế lây lan trong cộng đồng.
Hiện Việt Nam đã có các loại vắc-xin phòng 5 nhóm huyết thanh não mô cầu phổ biến, trong đó có vắc-xin tứ giá phòng 4 nhóm A, C, Y và W.
PGS Thái cho biết do bệnh diễn biến nhanh và nguy hiểm, người dân cần chủ động phòng ngừa bằng nhiều biện pháp, gồm tiêm chủng đầy đủ để tạo miễn dịch rộng, giữ vệ sinh cá nhân, đeo khẩu trang, hạn chế tụ tập đông người và bảo đảm không gian sống thông thoáng. Khi xuất hiện dấu hiệu nghi ngờ, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được thăm khám, điều trị kịp thời.




























