Bến nước ngày xưa
Bến nước làng tôi có từ lâu rồi. Ban đầu chỉ là vũng trâu đằm, là lối để trâu bò qua bên bãi bồi ăn cỏ.
Dưới vòm xanh của tre, của rặng mù u, vào buổi trưa hè, mấy cụ già ngồi hóng gió, có người mắc võng ngủ một giấc ngon lành. Theo thời gian và sự biến đổi địa chất, con sông nhiều đận đổi dòng, bến nước có sự xê dịch, có năm cát bồi, có mùa khoét lõm, sâu hun hút. Nhưng kỳ lạ, trong mảng ký ức tuổi thơ tôi, rặng mù u, bậc đá xanh rêu, tiếng nước vỗ từng đợt vào bờ luôn gợi nhớ.

Minh họa: HUYỀN TRANG
Bến nước thật sự xôn xao mỗi khi vào vụ gieo trồng hay thu hoạch. Tôi nhớ mấy cái cọc tre buộc đôi trâu nhà bác hàng xóm. Con vật hiền lành nằm nhai cỏ dưới bóng râm sau buổi vất vả cày bừa. Dưới lùm tre mát rượi là chiếc chõng nâu xỉn màu thời gian. Tôi nhớ hình ảnh cha ngồi trên bến vừa nhìn nước nhìn trời vừa tỉ mẩn vót từng sợi lạt, chằm lại cái dần, cái sàng gãy mất chiếc nan. Mùa gặt cũng là mùa hạ. Những cây vải dọc bờ sông lúc lỉu quả, tiếng chim tu hú cất lên trong vòm lá...
Khi ở xa quê, hình ảnh bến nước và ông lái đò luôn hiển hiện trong tâm trí. Mẹ tôi bảo, dù nước sạch được đưa về tận làng nhưng phụ nữ ở đây vẫn còn giữ thói quen ra bến nước giặt giũ, chuyện trò. Những buổi chiều muộn, khi các cô, các chị đi làm đồng về, tiếng nói cười rộn rã một khúc sông.
Từ bến nước này, người dân quê tôi lên đò qua sông đi chợ, lên thành phố, có người khoác túi xa quê. Và tôi, cũng từ quãng sông thân thuộc này đã ra đi mang theo khát vọng đổi đời. Đêm thành phố chênh chao ngọn đèn xanh đỏ, nhiều lần tôi mong tìm ánh trăng soi quê mình. Tôi nhớ đêm trăng soi bến nước. Cũng dưới ánh trăng soi, bên bến nước, mối tình đầu của tôi chớm nở, tuổi hoa niên còn lắm thẹn thùng...
Ngồi trên bến nước, nhìn con sông quê, tôi chợt nghe tiếng gọi đò văng vẳng, mơ hồ... Không có ai cả, chỉ là vọng tưởng. Bởi cách đấy không xa, một chiếc cầu mới xây, nối làng với phố, rất thuận tiện cho lưu thông. Người dân muốn qua bên kia sông không còn chờ đò, gọi đò nữa. Bến nước với con đò cũ nằm phơi nắng mưa, lắng nghe nhịp thời gian trôi mà thương nhớ, bồi hồi.
Mỗi lần nhắc đến bến nước, tôi lại nhớ bài thơ “Bến My Lăng” của thi sĩ Yến Lan. Chỉ một cái bến nước như bao cái bến bình thường khác nhưng lại là cái cớ để thi nhân gửi vào đó nỗi hoài mong thương nhớ. Lại nhớ, ở một số nơi, nhất là khu vực Tây Nguyên, bến nước là hình ảnh đầu tiên, tiêu biểu nhất để nhận biết và khẳng định sự tồn tại, phát triển của mỗi tộc người.
Vì thế, lễ cúng bến nước đã trở thành một trong những hoạt động quan trọng thể hiện tín ngưỡng và thực hành nghi thức văn hóa dân gian. Ngoài ra, cũng như ở miền xuôi, trong cấu trúc buôn làng, bến nước từ ngàn xưa là nơi giao lưu, đoàn kết giữa các thành viên của cộng đồng.
Bến nước làng tôi giờ đây chỉ còn trong hoài niệm. Dọc hai bên bờ sông, người ta đã xây dựng bờ kè chắc chắn và thoáng rộng. Rồi đây, những hình ảnh tạo nên bến nước có thể dần lùi vào lãng quên nhưng tôi tin rằng, cái bến nước đã ghi dấu bao vui buồn, chứng kiến bao thăng trầm của cuộc đời sẽ còn đọng lại trong tim mỗi người.