'Bệ đỡ' cho công nghiệp nông thôn phát triển
Trước yêu cầu chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị, từ gia công thô sang chế biến sâu, chương trình khuyến công tiếp tục là công cụ hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Từ “đòn bẩy” đầu tư đến thay đổi cấu trúc sản xuất
Thực hiện chương trình khuyến công giai đoạn 2021-2025, Gia Lai đã triển khai thực hiện 328 chương trình, đề án khuyến công, với tổng kinh phí hỗ trợ hơn 43 tỷ đồng.
Trong đó, khuyến công quốc gia thực hiện 33 chương trình, đề án với kinh phí hỗ trợ 10,625 tỷ đồng; khuyến công địa phương cấp tỉnh thực hiện 295 chương trình, đề án với kinh phí hỗ trợ gần 32,4 tỷ đồng.
Các nội dung hỗ trợ gồm: 236 đề án xây dựng mô hình trình diễn và ứng dụng máy móc tiên tiến; 24 đề án hỗ trợ phát triển sản phẩm công nghiệp nông thôn (CNNT) tiêu biểu; 2 đề án hỗ trợ tư vấn, trợ giúp các cơ sở CNNT; 29 đề án cung cấp thông tin về các chính sách phát triển công nghiệp, khuyến công.
Cùng với đó là 5 đề án hỗ trợ liên doanh, liên kết hợp tác kinh tế và phát triển các cụm công nghiệp và làng nghề; 23 đề án nâng cao năng lực quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động khuyến công; 9 đề án thực hiện nội dung khác.

Nguồn kinh phí khuyến công là đòn bẩy giúp doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư máy móc hiện đại phục vụ sản xuất. Ảnh: ĐVCC
Trong giai đoạn này, chương trình khuyến công đã thu hút hơn 86,3 tỷ đồng vốn đầu tư từ doanh nghiệp, tạo việc làm ổn định cho khoảng 2.000 lao động nông thôn, tăng 2,5 lần trước khi được vốn khuyến công hỗ trợ.
Các cơ sở CNNT sử dụng nguyên liệu sản xuất tại chỗ chiếm khoảng 70%; sản phẩm được cải tiến, nâng cao chất lượng, mẫu mã đáp ứng yêu cầu của thị trường. Doanh thu của các cơ sở CNNT tạo ra hàng năm trên 1.500 tỷ đồng, đóng góp vào ngân sách địa phương trên 6 tỷ đồng/năm.
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Xuất nhập khẩu New Sun (xã Bình An) thực hiện dự án đầu tư máy cắt ống Laser với tổng giá trị 900 triệu đồng, được hỗ trợ 300 triệu đồng từ chương trình khuyến công năm 2025, đơn vị thụ hưởng đóng góp 600 triệu đồng.
Ông Lê Anh Vũ - Giám đốc Công ty - cho hay: Trước đây, nhiều khâu sản xuất còn phụ thuộc vào lao động thủ công, trong khi yêu cầu về tiến độ và chất lượng ngày càng cao. Việc đưa máy móc mới vào vận hành giúp tốc độ xử lý công việc tăng gấp đôi, doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất và giao hàng.
“Hỗ trợ từ chính sách khuyến công đã tạo thêm động lực để doanh nghiệp mạnh dạn đổi mới công nghệ, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Đây là nền tảng quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh và hướng tới phát triển ổn định” - ông Vũ nhấn mạnh.

Cụm máy sản xuất của Công ty TNHH MTV Vita (xã Tây Sơn) vừa được hỗ trợ từ nguồn kinh phí khuyến công quốc gia 2025. Ảnh: ĐVCC
Hoạt động khuyến công không chỉ đơn thuần là hỗ trợ 1 chiếc máy, mà là mở ra hướng đi mới, từng bước hình thành các ngành nghề chế biến gắn với vùng nguyên liệu tại chỗ.
Ông Phan Bá Kiên - Giám đốc Công ty TNHH BaKa (xã Ia Hrung) cho biết: Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc đầu tư trang thiết bị và chuyển giao công nghệ là yếu tố sống còn nếu muốn nâng cao chất lượng sản phẩm và tham gia sâu hơn vào thị trường.
Với định hướng đưa chất lượng lên hàng đầu, BaKa đã đầu tư máy trích ly, cô đặc chân không để sản xuất cà phê hòa tan với tổng kinh phí 669 triệu đồng, trong đó, nguồn khuyến công quốc gia hỗ trợ 297 triệu đồng.

Sản phẩm cà phê BaKa được hỗ trợ tham gia nhiều chương trình xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Ảnh: Vũ Thảo
“Trước đây, nếu muốn làm cà phê hòa tan, chúng tôi buộc phải mua bột nguyên liệu từ các nhà máy lớn. Nay doanh nghiệp đã chủ động sản xuất khép kín, vừa kiểm soát được chất lượng, vừa giảm chi phí. Thời gian tới, Công ty sẽ tận dụng nguồn nguyên liệu địa phương như gừng, nghệ, bơ, sầu riêng để trích ly, tạo ra các dòng sản phẩm đặc trưng có giá trị gia tăng cao hơn” - ông Kiên chia sẻ.
Hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm
Hoạt động khuyến công luôn bám sát mục tiêu, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế của địa phương; từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong việc khuyến khích và huy động các nguồn lực vào đầu tư phát triển CNNT theo định hướng quy hoạch, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể: gia tăng số lượng cơ sở sản xuất, nhiều ngành nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp được khôi phục và phát triển.
Đặc biệt, các cơ sở CNNT phát huy nguồn vốn hỗ trợ, tiếp tục mở rộng quy mô, tạo ra các ngành có lợi thế của địa phương như: chế biến gỗ, sản xuất thực phẩm, sản xuất hàng cơ khí, thủ công mỹ nghệ…; đóng góp lớn vào giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách địa phương, tạo việc làm ổn định cho lao động nông thôn.
Ông Ngô Quốc Thịnh - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Xúc tiến thương mại (Sở Công Thương) cho biết: Thực tế triển khai giai đoạn trước cũng chỉ ra những “điểm nghẽn” cần tháo gỡ. Phần lớn doanh nghiệp nông thôn vẫn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, năng lực quản trị còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và kinh nghiệm xúc tiến thương mại. Nếu chỉ dừng ở hỗ trợ máy móc mà thiếu các hoạt động tư vấn, đào tạo, kết nối thị trường thì hiệu quả sẽ khó bền vững.

Lễ nghiệm thu bàn giao máy móc, thiết bị tiên tiến cho Công ty TNHH Nhân Hòa (phường Hoài Nhơn Nam). Ảnh: ĐVCC
Theo ông Thịnh, bước sang giai đoạn 2026-2030, yêu cầu đặt ra đối với công tác khuyến công không chỉ là nhiều hơn về số lượng đề án, mà chú trọng chất lượng hỗ trợ.
Chương trình khuyến công sẽ tập trung hướng đến đối tượng là các tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư sản xuất công nghiệp tại các khu vực nông thôn được quy định tại Nghị định số 45/2012/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến công.
Đồng thời, tiếp tục tập trung hỗ trợ một số nội dung hoạt động hiệu quả của chương trình khuyến công; tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về phát triển CNNT và hoạt động khuyến công trên địa bàn tỉnh.
“Giai đoạn 2026-2030, tỉnh Gia Lai sẽ triển khai 343 đề án khuyến công với tổng kinh phí hỗ trợ khoảng 46,8 tỷ đồng. Riêng nội dung xây dựng mô hình trình diễn và ứng dụng máy móc tiên tiến dự kiến thực hiện 262 đề án, chiếm khoảng 86,23% tổng nguồn kinh phí.
Định hướng này cho thấy sự nhất quán trong chính sách nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến công, chú trọng hỗ trợ để đổi mới công nghệ, ứng dụng máy móc hiện đại, phát triển sản phẩm chủ lực gắn với lợi thế vùng nguyên liệu; qua đó nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm CNNT” - ông Thịnh cho biết thêm.





























