'Báu vật' nơi đại ngàn
Giữa những làn mây trắng trên đỉnh núi ở bản Xin Chải (xã Khổng Lào) được điểm xuyết bởi màu xanh của chè shan tuyết cổ thụ. Những tán chè xòe rộng, thân cây phủ rêu phong mang dấu ấn của thời gian. Có cây đã hàng trăm năm tuổi, rễ bám sâu vào lòng đất, thân mốc trắng, cành lá vươn lên cao hứng trọn tinh túy của mưa nguồn, gió núi. Bởi vậy, chè shan tuyết ở Xin Chải được dân bản coi là 'báu vật' gắn với đời sống, văn hóa và tạo sinh kế cho đồng bào.

Anh Sùng A Pằng - Chủ nhiệm Hợp tác xã Xin Chải (xã Khổng Lào) đóng gói chè thành phẩm.
Chè shan tuyết cổ thụ Xin Chải nổi tiếng bởi búp to, phủ lớp lông tơ trắng, dấu hiệu đặc trưng của giống chè shan thuần chủng vùng cao. Khí hậu mát lạnh quanh năm, sương mù bao phủ gần như cả ngày tạo điều kiện lý tưởng cho cây chè tích tụ hương vị đặc biệt: nước xanh, vị chát dịu, ngọt hậu sâu và hương thơm thanh khiết. Người dân Xin Chải từ bao đời nay quen với việc lên núi hái chè vào sáng sớm, khi sương còn đọng trên những búp non. Bà con dùng tay hái từng búp, nhẹ nhàng để không làm dập lá, giữ nguyên lớp “sương” trắng quý giá. Búp chè sau khi hái được sao, vò thủ công hoặc bằng một số máy móc hỗ trợ, tạo nên sản phẩm mang trọn hương vị của núi rừng.
Ông Sùng A Sáy ở bản Xin Chải chia sẻ: “Cây chè shan tuyết có từ bao giờ tôi và dân bản đều không biết, chỉ nhớ từ ngày còn bé đã theo bố mẹ lên núi hái búp non rồi. Nhà tôi có hơn 20 gốc, mỗi vụ hái, chế biến và bán cũng đủ tiền lo cho con cái ăn học, mua sắm các vật dụng cần thiết. Chè khô gia đình tôi còn sử dụng hằng ngày và làm quà cho người thân dịp lễ, tết”.
Hiện, bản Xin Chải có hàng trăm gốc chè shan tuyết cổ thụ, phân bố chủ yếu trên các dãy núi có độ cao trung bình 1.300-1.400m so với mực nước biển. Nhiều cây có tuổi đời hàng trăm năm, xòe tán rộng, cho sản lượng ổn định. Mỗi năm, sản lượng chè búp tươi ước đạt 10-15 tấn, tương đương khoảng 2-3 tấn chè khô. Giá chè shan tuyết tươi dao động từ 50-60 nghìn đồng/kg; chè khô từ 1-1,5 triệu đồng/kg, cao gấp hàng chục lần so với chè trồng ở vùng thấp. Nhờ đó, nhiều hộ gia đình có thu nhập từ 60-80 triệu đồng/năm từ cây chè; một số hộ có nhiều gốc chè và tham gia hợp tác xã chế biến có thể đạt 100 triệu đồng/năm.
Những năm gần đây, từ giá trị kinh tế của cây chè shan tuyết mang lại, chính quyền xã Khổng Lào phối hợp với cơ quan chuyên môn của tỉnh và các doanh nghiệp, hợp tác xã hướng dẫn bà con thu hái, sơ chế, bảo quản theo quy trình; thực hiện liên kết sản xuất. Đến nay, đã có 7 hộ tham gia hợp tác xã, đầu tư máy sao, sấy để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm phụ thuộc vào thời tiết.
Cây chè shan tuyết không chỉ đem lại thu nhập mà còn gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của đồng bào. Trong các dịp lễ hội, tết truyền thống, chén chè nóng được dành để pha, mời khách quý. Nhiều gia đình vẫn giữ thói quen tập trung các thành viên uống chè, trò chuyện vào buổi tối, vừa thưởng thức hương vị đặc trưng của nông sản địa phương, vừa gắn kết tình cảm. Theo những người lớn tuổi, từ xa xưa, người dân Xin Chải đã coi cây chè cổ thụ là “cây thiêng” của bản. Có những gốc chè to bằng vòng tay một người ôm, được truyền lại qua nhiều thế hệ như một phần ký ức sống động của núi rừng. Câu chuyện về cây chè không chỉ là sản xuất, còn là gìn giữ lối sống hòa hợp với thiên nhiên.
Tuy nhiên, chè shan tuyết cổ thụ Xin Chải cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Nhiều hộ khi khai thác, thực hiện kỹ thuật chăm sóc còn dựa nhiều vào kinh nghiệm truyền thống, ít ứng dụng tiến bộ khoa học. Thị trường tiêu thụ đã có nhưng sản phẩm chủ yếu bán ở dạng thô, chưa xây dựng được thương hiệu nên giá trị kinh tế chưa tương xứng. Ngoài ra, biến đổi khí hậu với những thay đổi bất thường về nhiệt độ, lượng mưa cũng ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng chè. Nếu không có giải pháp bảo tồn, hướng dẫn người dân chăm sóc và phát triển hợp lý, “báu vật” này có nguy cơ xóa sổ.
Ông Đỗ Văn Quynh - Chủ tịch UBND xã Khổng Lào cho biết: “Xã xác định chè shan tuyết là cây trồng đặc trưng không chỉ của bản Xin Chải mà còn của xã, lợi thế để phát triển du lịch. Thời gian tới, chúng tôi sẽ phối hợp với các cơ quan chuyên môn triển khai mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ, hỗ trợ kỹ thuật người dân; khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng gắn với tham quan rừng chè, thưởng thức hương vị riêng có của chè cổ thụ. Từ đó, nâng cao thu nhập, giải quyết việc làm cho bà con ngay tại địa phương”.
Một trong những giải pháp sẽ được xã Khổng Lào triển khai thực hiện đó là rà soát, lập hồ sơ bảo tồn những cây chè có giá trị đặc biệt, gắn với đề xuất cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể. Phối hợp tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật chăm sóc, thu hái, chế biến an toàn để nâng cao chất lượng sản phẩm. Chú trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu “Chè shan tuyết cổ thụ Xin Chải”.
Với sự vào cuộc của chính quyền, sự đồng lòng của người dân, tin rằng “báu vật” nơi đại ngàn Khổng Lào sẽ tiếp tục vươn cao, tỏa bóng, chinh phục những người yêu trà khắp mọi miền Tổ quốc.