Bảo đảm tính thống nhất, an toàn pháp lý trong quản lý nợ công
Tại phiên thảo luận Tổ 7 (gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Nghệ An, Lâm Đồng), nhiều ý kiến thống nhất cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý nợ công là cần thiết, nhằm hoàn thiện khuôn khổ thể chế, nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay, bảo đảm an toàn nợ công; góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững trong giai đoạn tới.
Làm rõ khái niệm, phạm vi điều chỉnh để tránh rủi ro pháp lý
Góp ý tại phiên thảo luận, ĐBQH Phạm Phú Bình (Nghệ An) phân tích một trong những nội dung trọng tâm của dự thảo luật liên quan đến định nghĩa và phạm vi điều chỉnh trong việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài.

ĐBQH Phạm Phú Bình (Nghệ An) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Theo dự thảo, quyền và nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế không phụ thuộc vào tên gọi của văn bản ký kết, dù đó là nghị định thư, hiệp định, biên bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hay hình thức khác. Khoản 2 Điều 24 dự thảo nêu rõ: “Thỏa thuận vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên cho vay nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi quyền, nghĩa vụ của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài, không phải là điều ước quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp định vay, thỏa thuận tín dụng, hạn mức tín dụng hoặc tên gọi khác”.
Dự thảo đồng thời chia “bên cho vay nước ngoài” thành hai nhóm: nhóm quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế và nhóm cơ quan, tổ chức đại diện của chính phủ, ngân hàng, tổ chức tín dụng, định chế tài chính nước ngoài... Cách phân định này theo đại biểu là chưa hợp lý, vì dẫn đến việc tách hai loại quan hệ vay vốn – một nhóm được coi là điều ước quốc tế, nhóm còn lại là “thỏa thuận quốc tế” không phải điều ước quốc tế và chưa thống nhất với Luật Điều ước quốc tế hiện hành.

Các ĐBQH tỉnh Lâm Đồng tham dự phiên thảo luận tổ. Ảnh: HP
“Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng, liên quan trực tiếp đến cam kết quốc tế, uy tín quốc gia và an toàn pháp lý của các khoản vay. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá tác động toàn diện để bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và an toàn pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia”, đại biểu nhấn mạnh.
Nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng nguồn vốn vay
Phát biểu tại tổ, các đại biểu cũng đánh giá, sau 7 năm thực hiện Luật Quản lý nợ công năm 2017, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực: hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện, cơ cấu nợ được kiểm soát an toàn. Vay trong nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chiếm 89% tổng vay của Chính phủ (khoảng 2,4 triệu tỷ đồng), trong khi vay nước ngoài chỉ chiếm 11%, tương đương 327 nghìn tỷ đồng… Tuy vậy, cần nhìn nhận rằng nguồn vay nước ngoài, đặc biệt là vốn ODA, có hiệu quả cao với lãi suất trung bình chỉ khoảng 2%/năm, thời hạn vay dài từ 20 đến 40 năm.
Do đó, các đại biểu khuyến nghị, Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế để tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn này, đồng thời khắc phục những điểm nghẽn, bất cập trong quá trình thực hiện thời gian qua.

ĐBQH Phạm Thị Hồng Yến (Lâm Đồng) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Về phát hành trái phiếu chính phủ, giai đoạn 2018–2024, Chính phủ đã phát hành hơn 1,93 triệu tỷ đồng trái phiếu, trong đó trái phiếu kỳ hạn trên 15 năm chiếm gần 92%. Đây là dấu hiệu tích cực, thể hiện khả năng huy động vốn trong nước ổn định và bền vững. Tuy nhiên, dù Luật Quản lý nợ công năm 2017 đã cho phép phát hành trái phiếu quốc tế, đến nay vẫn chưa được triển khai…
Trong bối cảnh Quốc hội đã thông qua chủ trương xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, ĐBQH Phạm Thị Hồng Yến (Lâm Đồng) đề nghị, cần nghiên cứu phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế gắn với định hướng này; qua đó, đa dạng hóa nguồn vốn và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường tài chính toàn cầu.
Đại biểu cũng chỉ rõ, vay của chính quyền địa phương hiện còn rất khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 0,6% tổng vay công, bình quân 2.400 tỷ đồng mỗi năm. Giai đoạn 2018–2024, tổng huy động của địa phương mới đạt 80.000 tỷ đồng. Để phát huy nguồn lực này, cần có cơ chế linh hoạt hơn cho phép địa phương huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính quyền, vay lại vốn ODA hoặc các hình thức phù hợp khác, gắn với trách nhiệm trả nợ và bảo đảm an toàn nợ công.

Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An tham dự phiên thảo luận. Ảnh: HP
Còn ĐBQH Nguyễn Vân Chi (Nghệ An) thì cho rằng, cơ quan soạn thảo cần rà soát, làm rõ quy định liên quan đến hiệp định tránh đánh thuế hai lần, bởi một số hiệp định có quy định miễn hoặc loại trừ thuế thu nhập đối với khoản lãi tiền vay của Chính phủ. Nếu dự thảo luật quy định khác với các hiệp định thuế quốc tế, có thể phát sinh mâu thuẫn, làm mất quyền đánh thuế của Việt Nam. Ngược lại, nếu hiệp định đã quy định miễn thuế, việc lặp lại trong luật sẽ không cần thiết.
Đại biểu đề nghị rà soát toàn bộ các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, tránh trùng lặp và mâu thuẫn. Nếu vẫn giữ quy định miễn thuế, cần điều chỉnh tên gọi điều khoản cho phù hợp với quy định hiện hành về ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

ĐBQH Nguyễn Vân Chi (Nghệ An) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Đối với khoản vay từ Quỹ Dự trữ tài chính Nhà nước, đại biểu cho rằng: việc bỏ quy định tại điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 4 là chưa thực sự hợp lý. Dù gọi là tạm ứng hay vay, về bản chất vẫn là việc sử dụng nguồn từ quỹ này, nên cần xác định rõ thẩm quyền quyết định và thời hạn hoàn trả để bảo đảm an toàn tài chính và kỷ luật ngân sách. Theo quy định hiện hành, việc vay từ Quỹ Dự trữ tài chính thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ và thời hạn hoàn trả là một năm. Dự thảo luật cần được bổ sung quy định cụ thể hơn về vấn đề này.

































