Báo Cứu Quốc: Binh vận lòng dân bằng ngôn từ mộc mạc
Câu chữ mộc mạc nhưng sắc bén, và đăng rất nhiều thơ cổ động quần chúng, Cứu Quốc – nhật báo tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh, đã binh vận lòng dân và tiếp lửa kháng chiến theo cách rất độc đáo.

Bản Khuổi Khún (xã Mỹ Phương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn), nơi Báo Cứu Quốc đặt tòa soạn kháng chiến năm 1947, tại đây các nhà văn, nhà báo Tô Hoài, Nam Cao viết nhiều tác phẩm đăng báo dài kỳ.
Ai đọc cũng hiểu
Cứu Quốc là tờ báo mà ai đọc cũng hiểu rất nhanh, dễ nghe, dễ làm theo. Những “số báo bí mật” đầu tiên (giai đoạn 1942 – 1945) ra đời dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ và Tổng bộ Việt Minh, với yêu cầu: “Bài vở phải sát với trình độ quần chúng và phải phản chiếu đời sống của nhân dân”. Bởi lẽ, nạn đói dưới ách thống trị ngoại xâm đã khiến hàng triệu người chết; còn nạn dốt do chính sách cai trị thâm độc của đế quốc khiến tới 95% dân ta mù chữ, không phải ai cũng biết đọc báo.
Thống thiết mà hùng hồn xúc động, lời giới thiệu tờ báo số đầu (từ thôn Xuân Kỳ, Sóc Sơn, Hà Nội) có những câu “Hỡi toàn thể đồng bào, đã 80 năm Tổ quốc kính yêu mất quyền độc lập, sa vào vòng nô lệ của giặc Pháp tham tàn, dân tộc Việt Nam phải mang trên trán vết quốc sỉ nhuốc nhơ mà máu đào của bao nghĩa sỹ, anh hùng tới nay chưa rửa sạch… Trước cảnh tượng nước mất nhà tan thê thảm, báo Cứu Quốc ra đời, thống thiết kêu gọi đồng bào mau hợp sức cùng lòng đánh đuổi Pháp – Nhật, rửa nhục non sông, đưa Tổ quốc đến bến vinh quang độc lập. Cứu Quốc sẽ giãi bày nỗi lầm than thống khổ của nhân dân, sẽ nêu cao ý muốn thiết tha của trăm họ, sẽ là người chỉ dẫn trung thành trên con đường cờ đỏ sao vàng giải phóng dân tộc”…
Có nhiều bài khơi gợi truyền thống lịch sử, như “Quang Trung đại phá quân Thanh”, “Ủng hộ Bắc Sơn”…, Cứu Quốc dùng câu chữ đơn giản mà sắc bén, nhất là bài xã luận, phản ánh hay phân tích. Khi phát xít Đức bội ước tấn công Liên Xô, báo có bài dài, tiêu đề “Tại sao chúng ta phải ủng hộ Liên Xô và ủng hộ bằng cách nào?”. Dân chúng bắt đầu hiểu biết Liên Xô là ở đâu, quốc tế cộng sản là như thế nào. Số “Cứu Quốc Xuân” (1943) có xã luận viết: “Chúng ta đang tiến tới tổng khởi nghĩa một cách chắc chắn. Việt Minh phải đưa quần chúng ra tranh đấu chống cướp thóc, cướp đất, chống tăng sưu, tăng thuế, chống đàn áp, bắt lính, bắt phu…”.
Lại còn có “Số ra đặc biệt về đay, gạo” tố phát xít Nhật, rằng: “Khắp nơi dân chúng phải đau lòng nhổ những cây ngô bắp mới “ôm em”, toàn cõi Đông Dương bao người phải ăn đói mặc rách, nuốt nước miếng trông theo những xe đầy thóc phải chở dâng cho Nhật. Sét đánh ngang tai khi giặc Nhật hạ lệnh phá hủy để trồng đay. Hãy đoàn kết lại! Hãy noi gương dân làng Vo Vàng, Cổ Bi (Bắc Ninh), cả già trẻ, lớn bé nhất định ngăn cản Nhật đụng vào hoa màu…”.
Khi lãnh đạo Đảng và Tổng bộ Việt Minh tổ chức cho một số tù chính trị của ta trốn ra (do thiếu cán bộ), bài “Vượt ngục” (số ra 15) viết: “Năm ngoái tháng Tám ta, bốn anh ở nhà tù Sơn La vượt ngục. Tháng Chín, một anh ở Chợ Chu. Năm nay, 5 anh ở nhà tù Hòa Bình tẩu thoát. Cách mấy hôm, 3 anh ở nhà tù Sơn La lại biến mất. Tháng Tám có 8 anh nhảy khỏi vòng vây ở căng Bá Vân. Tháng Chín, 10 anh ở Chợ Chu lại vượt qua cửa sắt…”. Ngôn từ Cứu Quốc làm phấn chấn đồng bào lại gây tức tối cho địch.
Mặt trận Việt Minh ra đời rất kịp thời đã đoàn kết ngày càng nhiều tầng lớp nhân dân. Cứu Quốc thường xuyên có bài về sức mạnh đoàn kết, tác động phong trào cách mạng chuyển biến nhanh chóng. Bài “Thống nhất Việt Minh” nói phải bầu ra Ủy ban Việt Minh để cùng thi hành nghị quyết của thượng cấp. Bài “Thực tâm cứu nước” nói mỗi người phải cụ thể gánh vác công việc chứ không ỷ lại, hô hào suông…

Hộp đựng "bút nghiên thi sĩ" người làng Điềm Mặc tặng đồng chí Xuân Thủy năm 1950 hiện còn lưu giữ tại nhà trưng bày của Hội Nhà báo Việt Nam ở Thái Nguyên.
Độc đáo thơ Cứu Quốc
Hồi ký xuất bản năm 2017 của cụ Nguyễn Văn Hải (nhà báo, làm trị sự báo Cứu Quốc suốt kháng chiến chống Pháp) được xem như một di cảo đặc sắc, mô tả rằng việc biên tập từng bài viết thực ra rất kỹ lưỡng. Bút lực tinh anh của Hồ Chủ tịch, cụ Trường Chinh, cụ Lê Quang Đạo, cụ Trần Huy Liệu…, và đặc biệt là Chủ nhiệm – Chủ bút Xuân Thủy, đã gọt giũa từng ý đoạn, từng con chữ của các phóng viên và cộng tác viên. Mỗi bản thảo được chuyển tay nhau đọc, có bài mang sang cả bên nhà in và các tổ viên đọc mọi người cùng nghe, cùng sửa, rồi lại thêm thắt, lược bỏ, viết ngắn mà hay, điều chỉnh nhiều lần rồi mới cho đăng. Họp hàng ngày hoặc hàng tuần rất cứng kỷ luật. Cụ Xuân Thủy nêu rõ nay sản xuất mục gì, trọng tâm gì, bài gì, tình hình giấy mực, tăng hay giảm trang, ai nhận viết bài nào thì hẹn rõ thời điểm nộp bài rồi mỗi người tỏa đi một ngả mà làm.
Ở tòa soạn Điềm Mặc (Thái Nguyên) thiếu thốn vật dụng, có ông thợ mộc ham thơ ngày nào cũng qua xin báo, thấy vậy còn đóng một hộp đựng nghiên bút tặng cụ Xuân Thủy. Cái hộp được cụ gìn giữ mang theo mãi về sau.
Đỉnh cao nội dung và chữ nghĩa, có lẽ ai cũng biết đến “Tuyên ngôn Độc lập”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, hay “Thư chúc năm mới” (1949) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo Cứu Quốc hẳn còn chuyên chở một làng thi ca. Dù bị giặc truy lùng ráo riết, nhưng “ma trận Cứu Quốc” không bao giờ đứt mạch nhật báo từ năm 1946 (mỗi ngày từ 3.000 - 5.000 tờ, có số cao điểm tới 35.000 tờ) bởi đã lập ra nhiều chi nhánh (có tới 11 chi nhánh), cả ở Hà Nội và vùng ATK. Chiều nay giặc truy đuổi chi nhánh này, chi nhánh kia lập tức thay thế ra báo hôm sau. Cứu Quốc sung sức thể loại, có cả quảng cáo, những trang văn hóa, văn nghệ dồi dào được độc giả tìm đọc dù là báo bán chứ không phát miễn phí.
Văn hóa soi đường quốc dân, song giới văn nghệ sĩ thời đó đều có tính dân tộc nhưng tư tưởng dễ ngả nghiêng. Cứu Quốc đã mở cuộc thi viết ca dao, quy tụ nhanh chóng 1.000 bài tham dự có nội dung đả kích địch lại đậm đà tính dân tộc, ai đọc cũng bình luận khoái trá. “Kể từ Nhật chiếm Đông Dương/Biết bao nhiêu lũ phường tuồng múa manh…” (“Bù nhìn Trần Trọng Kim”), “Tưởng rằng đè cả năm châu/Ai hay lụn bại biết đâu cơ trời… (“Nhật Hoàng khóc Hít-le tự tử”).
Từ cuối năm 1945, rất nhiều văn sĩ tài hoa đầu quân hoặc cộng tác tích cực. Chủ lực là Tô Hoài, Như Phong, Nam Cao, Hồng Hà, Nguyễn Ngọc Kha, Thanh Đạm, Văn Cao, Văn Tân…, lại thêm hai họa sĩ là Bùi Xuân Phái và Trần Đình Thọ, còn có nhiều cộng tác viên “ruột” là Xuân Diệu, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Thép Mới, Ngô Tất Tố...
Tất cả tạo nên một "binh chủng văn nghệ sĩ". Chỉ vài năm, có tới 300 bài thơ, ca dao đăng chuyên mục Bút Chiến Đấu, và rất nhiều câu trào phúng, khích lệ như của Tú Mỡ hay Huy Cận: "Yêu anh em nhắn gửi lời/Ta no ta đánh tiệt nòi thực dân" (Tăng gia sản xuất), "Ta không có súng, liều thân/Xông ra cướp súng thực dân mới tài" (Cướp súng giặc giết giặc), "Thằng Tây chớ cậy béo quay/Mày thức hai bữa là mày bở tai/Chúng tao thức bốn đêm rồi/Ăn cháo ba bữa chạy mười chín cây/Bây giờ tao gặp mày đây/Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao" (Nụ cười kháng chiến)... Từ bản Khuổi Khún (Bắc Kạn), Tô Hoài và Nam Cao đã viết nhiều tác phẩm lừng danh đăng nhiều kỳ. Từ Hà Nội theo tiếng gọi Cứu Quốc, ngày càng nhiều văn nghệ sĩ đại thụ ào ạt viết cho cách mạng. Và tháng 4/1949, theo sáng kiến của Hồ Chủ tịch, Tổng bộ Việt Minh đã mở lớp đào tạo viết báo Huỳnh Thúc Kháng ở thôn Gò Pháo (Thái Nguyên), một địa điểm chi nhánh Cứu Quốc, do cụ Xuân Thủy lãnh đạo.
Binh vận lòng dân từ trí tuệ tài hoa của văn nghệ sĩ, Cứu Quốc vừa mộc mạc, lại tinh hoa mà khôn ngoan ngòi bút nhờ các đại thụ này. Tình cảm ái quốc và lòng căm hờn ngoại xâm, tất cả đều làm việc không lương, chỉ ăn uống tập thể, mãi sau này mới có thù lao, nhuận bút tiêu vặt.