Báo chí với 'Bộ tứ chiến lược', góp phần nâng cao quyền năng của phụ nữ trong Kỷ nguyên mới

Báo chí góp phần tuyên truyền các thành quả nghiên cứu về giới, tính đa dạng dân tộc và văn hóa để phục vụ tốt hơn cho phụ nữ, các dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế khác, bảo đảm tiếp cận và truyền thông trong việc thúc đẩy các chương trình và chính sách của Chính phủ; xây dựng môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và năng lực của các chủ doanh nghiệp là phụ nữ.

 Sáng 21/6/2025, tại Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Sáng 21/6/2025, tại Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Tròn 100 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng, nền báo chí cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, với hệ thống hùng hậu, hội tụ các loại hình báo chí hiện đại, trong vị thế và chức năng là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước và là diễn đàn của Nhân dân, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân, giữa nước ta với bạn bè thế giới, báo chí nước nhà ngày càng thể hiện tốt vai trò định hướng dư luận, là nơi tin cậy để Nhân dân gửi gắm tâm tư, khát vọng trong công cuộc giành lại và giữ gìn nền độc lập, kiến thiết và phát triển đất nước, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của Nhân dân.

Và, 95 năm qua, trong sự nghiệp trọng đại đó, báo chí cách mạng đồng hành với phụ nữ và phong trào phụ nữ, vì sự nghiệp giải phóng và tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.

Đó là sứ mệnh, là trách nhiệm vẻ vang của báo chí nước nhà đối với phụ nữ - một nửa của dân tộc ta.

Trước thềm Kỷ nguyên mới, trong 5 tháng qua, Đảng ta đã ban hành 4 quyết sách lớn gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, yếu tố được xem là động lực tiên quyết để tăng tốc phát triển; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24/1/2025, về hội nhập quốc tế sâu rộng, nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ; Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025, về đổi mới công tác lập pháp, hoàn thiện thể chế để tạo hành lang pháp lý ổn định, thông thoáng, thúc đẩy phát triển và Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025, về phát triển kinh tế tư nhân.

Có thể gọi đó là "bộ tứ chiến lược" cấu thành chỉnh thể tư tưởng và hành động mà Tổng Bí thư Tô Lâm gọi là "bộ tứ trụ cột". Các quyết sách này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau như những trụ cột để tạo nên sức bật cho nền kinh tế và đổi mới xã hội. Đó không chỉ là những chính sách đơn lẻ, mà là bước ngoặt trong tư duy và nhận thức, tạo tiền đề cho một cuộc cách mạng phát triển kinh tế-xã hội mới của đất nước. Đó là nền tảng tư duy, cương lĩnh hành động và kiến tạo động lực phát triển quốc gia trong bối cảnh chuyển động nhanh, rộng và sâu của thời đại.

Và, trên tầm vĩ mô, đó cũng là tầm nhìn, cương lĩnh hành động và động lực phát triển của phụ nữ và phong trào phụ nữ Việt Nam trong vị thế một nửa dân tộc cùng đất nước bước vào Kỷ nguyên mới phú cường.

* * *

Báo chí cách mạng Việt Nam có vai trò then chốt trong việc truyền thông, định hướng dư luận, tạo đồng thuận, thúc đẩy triển khai hiệu quả các nghị quyết trong lực lượng phụ nữ và phong trào phụ nữ. Từ tầm nhìn chiến lược về báo chí với phụ nữ thực thi "bộ tứ trụ cột" từ quy mô tới tốc độ và chiều sâu hiện thực vĩ mô và cụ thể, nổi bật là một số vấn đề chủ yếu:

Một là, những con số không phải chỉ để thông tin, để biết mà để kiến tạo tầm nhìn mục tiêu chiến lược và để hoạch định cương lĩnh hành động vì, cho đất nước và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong phong trào phụ nữ.

Nếu muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên trong năm nay và tăng trưởng hai con số từ năm 2026 đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao, thì phải bứt phá và tăng tốc phát triển. Đây là khu vực chiếm tỷ trọng lớn nhưng đang đối mặt với nhiều rào cản về thể chế, pháp lý, môi trường kinh doanh. Đó là tinh thần của Nghị quyết số 68.

Nếu trong gần 40 năm đổi mới, Việt Nam luôn tăng trưởng đều, bình quân khoảng 6,4%-6,5%, cao nhất năm 1995 là 9,54%, thấp nhất là 2,6% vào năm đại dịch 2021, thì để "tăng tốc, cất cánh", cần phải vượt ngưỡng 8%-10% và giữ vững đà này. Đây là lý do vì sao Nghị quyết số 57 lại mang ý nghĩa chiến lược đến vậy.

Đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia diễu hành tại phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội), tháng 3/2025 - Ảnh: Thu Hà

Đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia diễu hành tại phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội), tháng 3/2025 - Ảnh: Thu Hà

Nếu Nghị quyết số 66 được xem là kim chỉ nam trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, bao gồm cả việc ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo để rà soát, đồng bộ, chống chồng chéo trong các văn bản pháp lý thì Nghị quyết số 68 trả lời phải làm gì và làm như thế nào để khu vực hiện đóng góp hơn 51% GDP và 55% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trở thành động lực phát triển quan trọng nhất, đưa nền kinh tế cất cánh trong tương lai.

Theo nghiên cứu, có hơn 70% phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động. Tỷ lệ này trên toàn cầu là 47,2% và tỷ lệ trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương là 43,9%. Mặc dù mức chênh lệch giới trong tỉ lệ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam ít hơn so với thế giới nhưng vẫn ở mức 9,5% suốt thập kỷ qua.

Trong phong trào "Quốc gia khởi nghiệp" và phát triển bền vững, phụ nữ làm chủ và sở hữu với tỷ lệ sở hữu 26,5% tổng số doanh nghiệp Việt Nam. Nổi bật là giai đoạn 2010 - 2020, tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ từ 21% tăng lên tới 40%, trong đó nhiều doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ trở thành thương hiệu trong nước, khu vực và thế giới trong bối cảnh phụ nữ ở các nước trong khu vực và trên thế giới trên lĩnh vực này, chẳng hạn, Thụy Điển là 20%, Indonesia là 21%, Pháp là 24%... Phụ nữ giữ vị trí quản lý, lãnh đạo tại doanh nghiệp ở các khu vực kinh tế quốc gia không ngừng tăng: Nếu năm 2010, tỷ lệ này chiếm 20% thì năm 2023 tăng lên 28%. Đặc biệt, hiện nay, phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo cấp cao tại doanh nghiệp là 33%, trong đó 15% tổng số chị em giữ vị trí lãnh đạo doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao (tỷ lệ này trên toàn cầu chỉ là 9%). Và, Việt Nam đứng thứ 6 thế giới về tỷ lệ nữ doanh nhân và là đại diện châu Á duy nhất trong top 10 nước có tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo cao nhất.

Hiện nay, có 64% lực lượng trong ngành giáo dục nước ta là nữ; 58% lực lượng khoa học xã hội và nhân văn là nữ; 55% lực lượng y bác sỹ, khoa học sức khỏe là nữ. Đây là 3 lĩnh vực quan trọng của đất nước, chăm lo cho sức khỏe con người, sự hiểu biết trí tuệ và tương lai. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tỷ lệ phó giáo sư là nữ chiếm 30,9%, tỷ lệ nữ tiến sĩ là 38,6% và 54,6% nữ thạc sĩ. Trong y tế, phụ nữ chiếm hơn 70% lực lượng lao động, bao gồm bác sĩ, y tá và nhân viên y tế khác. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của phụ nữ Việt Nam đạt 77,2 tuổi…

Đó là những con số không chỉ làm nên gương mặt mà kết tinh bản lĩnh, tư chất của phụ nữ Việt Nam trước thềm Kỷ nguyên mới.

Báo chí vinh dự mang sứ mệnh góp phần tôn vinh phụ nữ Việt Nam.

Hai là, nhận diện và hóa giải những mâu thuẫn trong thực tiễn thực hiện "bốn trụ cột" - nhìn từ báo chí với phụ nữ và phong trào phụ nữ.

Xin nhấn mạnh lại, những con số không phải chỉ để thông tin, để biết mà để kiến tạo tầm nhìn mục tiêu chiến lược và để hành động vì và cho đất nước và vì sự tiến bộ của phụ nữ, phong trào phụ nữ. Theo đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cùng hệ thống báo chí có chung trách nhiệm, phối hợp nghiên cứu và tuyên truyền:

Trước hết, những mâu thuẫn trong phụ nữ và phong trào phụ nữ:

Có thể hình dung 4 loại vấn đề:

1. Mâu thuẫn giữa phát triển các quyền năng chính trị, kinh tế, xã hội với sự trói buộc bởi những "sợi dây" tư tưởng cũ, tập quán lạc hậu trong vòng thực hiện thiên chức từ mỗi gia đình

Các kết quả nghiên cứu về phụ nữ khẳng định: Sự bất bình đẳng đối với phụ nữ về chất lượng việc làm và phát triển nghề nghiệp đều bắt nguồn từ trách nhiệm kép mà họ phải gánh vác.

Theo một báo cáo nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam, trong 3 tháng cuối năm 2020, phụ nữ làm việc nhiều hơn 0,8% số giờ so với cùng kỳ 2019, trong khi nam giới chỉ làm nhiều hơn 0,6%; và hơn một nửa số phụ nữ lựa chọn không hoạt động kinh tế vì "lý do cá nhân hoặc liên quan đến gia đình". Trong khi đó, chỉ có 18,9% nam giới không tham gia hoạt động kinh tế viện dẫn lý do này. Những giờ làm tăng thêm này khiến gánh nặng kép họ vốn phải gánh vác càng nặng nề hơn, do họ vẫn phải dành quá nhiều thời gian làm việc nhà so với nam giới, thậm chí nhiều hơn gấp đôi so với nam giới.

Đặc biệt, 40% số phụ nữ cảm thấy thiếu kỹ năng quản lý và kỹ năng mềm, do định kiến xã hội. Đồng thời, gánh nặng gia đình đã bào mòn thời gian và làm lỡ làng cơ hội phát triển sự nghiệp của phụ nữ. Do dành thời gian cho công việc gia đình rất nặng, cao hơn so với nam giới, thậm chí có khu vực khoảng 40%, lại thiếu sự ủng hộ từ gia đình, tất cả đã hạn chế khả năng vươn lên và cơ hội thăng tiến của phụ nữ.

2. Mâu thuẫn giữa quyền năng với khả năng đáp ứng phát triển

Qua khảo sát các dịch vụ và chính sách của Chính phủ về mức độ dễ tiếp cận, đem lại lợi ích và tăng quyền năng cho doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp do nhóm yếu thế (phụ nữ, phụ nữ dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật...) làm chủ, cho thấy, số doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh do phụ nữ làm chủ gặp nhiều khó khăn hơn trong tiếp cận thông tin và chính sách hỗ trợ. Cụ thể, nữ chủ hộ kinh doanh ít có cơ hội tham gia tập huấn; không thường xuyên nhận được thông tin hỗ trợ; tỷ lệ được mời đối thoại của nữ doanh nhân thấp... Mặt khác, việc thiếu điều kiện tiếp cận giáo dục và đào tạo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và các nhóm dân tộc thiểu số… đã vô hình cản trở phụ nữ học tập, chọn nghề, việc làm và thăng tiến.

Vì sao chỉ khoảng 25% phụ nữ có cơ hội thăng tiến, so với 45% ở nam giới và chỉ 25% phụ nữ làm việc trong ngành có thu nhập cao, so với 40% ở nam giới? Hơn nữa, vì sao trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM), tỷ lệ phụ nữ còn thấp, hạn chế tiềm năng của phụ nữ trong phát triển khoa học và công nghệ của đất nước?

Để hóa giải những "chướng ngại" đó, phải chăng cần tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế? Pháp luật là nền tảng để phát triển, nếu thể chế không tương dung, minh bạch và hiệu lực thì không thể tạo niềm tin và động lực cho doanh nghiệp, người dân, phụ nữ và cả hệ thống chính trị. Theo đó, phải đổi mới toàn diện các chính sách để xây dựng một hệ thể chế thông minh, linh hoạt và thúc đẩy phát triển; góp phần tạo ra môi trường thuận lợi, cổ vũ cho những điều mới mẻ, sáng tạo, dành cho tri thức sự tôn vinh phụ nữ xứng đáng hơn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế phù hợp nhằm khơi dậy, phát huy tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo của tất cả mọi người, nhất là lực lượng lao động nữ.

3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu của doanh nghiệp, cộng đồng với năng lực, lợi ích của phụ nữ

Phụ nữ đang gặp nhiều khó khăn trong mở rộng kinh doanh và tiếp cận nguồn lực hỗ trợ. Nghiên cứu cho thấy, có tới 84,5% nữ chủ doanh nghiệp, hợp tác xã phản ánh không thường xuyên nhận được thông tin hỗ trợ so với nam giới. Tỷ lệ được mời đối thoại của nữ doanh nhân cũng thấp hơn nam. Tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh nữ báo lãi thấp hơn nam, với 65% nữ chủ hộ kinh doanh có lãi, so với con số 74,43% ở nam chủ hộ. Tương tự, 73,08% số doanh nghiệp, hợp tác xã do nữ làm chủ có lợi nhuận, thấp hơn nhóm nam 77,82%.

Vấn đề đáp ứng giới trong quản lý doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ vẫn gặp khó khăn. Sự minh bạch thông tin còn hạn chế, đặc biệt về các dự án đầu tư, đấu thầu, mua sắm công, gây khó khăn trong tiếp cận cơ hội kinh doanh. Các kênh thông tin của chính quyền chưa hiệu quả, chưa hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận các chương trình tăng cường năng lực, hỗ trợ sản xuất của nhà nước. Tiếng nói của doanh nghiệp nữ còn hạn chế trong đối thoại, tham vấn chính sách, ảnh hưởng đến khả năng phản ánh nhu cầu thực tế. Các chương trình hỗ trợ kết nối chuỗi cung ứng chưa đáp ứng kỳ vọng, làm hạn chế sự phát triển thị trường.

4. Mâu thuẫn giữa mục tiêu giải phóng tiềm năng của phụ nữ với sự hạn hẹp và cứng nhắc của thể chế

Mục tiêu tổng quát là hướng đến nâng cao quyền năng, vị thế kinh tế-xã hội và khả năng thích ứng của phụ nữ. Dù phụ nữ chiếm gần một nửa lực lượng lao động nhưng chỉ đảm nhận khoảng 1/4 vị trí lãnh đạo, quản lý chung. Chẳng hạn, có 29,7% vị trí lãnh đạo là phụ nữ, so với 70,3% nam giới tại khu vực kinh tế nhà nước. Tại khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tỷ lệ này là 34,1% ở phụ nữ, so với 65,9% ở nam giới. Vì sao vậy?

Mặc dù ở cấp độ chính sách căn bản, Bộ luật Lao động 2019 mở ra những cơ hội để thu hẹp khoảng cách giới: thu hẹp khoảng cách trong độ tuổi nghỉ hưu hay xóa bỏ việc hạn chế phụ nữ tham gia một số ngành nghề nhất định nhưng việc thay đổi tư duy của nam giới và của chính phụ nữ liệu đã tương xứng, ngõ hầu có thể thay đổi vị thế của họ trên thị trường lao động vẫn đang rất khó khăn?

Và, chính quyền địa phương có bảo đảm xứng đáng cho phụ nữ tham gia vào các chuỗi giá trị để mở rộng cơ hội đầu tư và hợp tác kinh doanh; hỗ trợ các chính sách nhằm cải thiện khả năng tiếp cận tài chính cho phụ nữ, liên kết hỗ trợ doanh nghiệp với bảo trợ xã hội; cải thiện các nền tảng để phụ nữ bày tỏ mối quan tâm và ưu tiên của mình với chính quyền cùng với các cơ chế phản hồi hiệu quả và thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo thông qua các chương trình đào tạo và phát triển kỹ năng quản lý?

Thứ hai, các mâu thuẫn trong hoạt động báo chí và truyền thông về phụ nữ

Đây thực chất là mối quan hệ giữa Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và hệ thống báo chí theo chức năng, nhiệm vụ, có thể hình dung cần kíp hóa giải trên 3 phương diện chủ yếu:

1. Mâu thuẫn giữa tuyên truyền tổng thể với tuyên truyền tương xứng về phụ nữ

Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với hệ thống báo chí xây dựng chiến lược truyền thông một cách hệ thống và phù hợp để đưa 4 nghị quyết đến mọi tầng lớp phụ nữ.

Báo chí không chỉ là cầu nối chính sách - người dân, mà còn giúp nâng cao năng lực tiếp cận thông tin, đào tạo tài chính, chuyển đổi số cho phụ nữ; xây dựng các chuyên trang, chuyên mục về phụ nữ làm kinh tế, nâng cao kỹ năng quản trị - số hóa - thương mại điện tử. Tổng kết hệ chính sách vĩ mô về phụ nữ và liên quan tới phong trào phụ nữ. Tham gia giám sát xã hội, phản ánh bất cập trong chính sách và thực thi pháp luật về giới.

2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tuyên truyền về phụ nữ và phong trào phụ nữ với năng lực của phóng viên

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà báo có kiến thức đa ngành: pháp luật, công nghệ, kinh tế - xã hội chung quanh phụ nữ và phong trào phụ nữ. Tăng cường hợp tác giữa báo chí với doanh nghiệp, với các tổ chức khác, trước hết và trung tâm của Hội, để lan tỏa mô hình, kết nối nguồn lực vì và cho phụ nữ.

Góp phần kiến tạo môi trường truyền thông về khởi nghiệp minh bạch - truyền cảm hứng. Báo chí đồng hành cùng doanh nghiệp nữ: truyền thông hỗ trợ chính sách tín dụng, thuế, thị trường và liên quan tới lao động nữ.

3. Mâu thuẫn giữa hệ thống báo chí với các cơ quan nghiên cứu về phụ nữ và tổ chức thực tiễn phong trào phụ nữ

Nghiên cứu khoa học cũng như tư vấn, phản biện chính sách là công việc lớn quyết định chất lượng hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp và sự phát triển của phụ nữ.

Hơn ai hết, báo chí góp phần tuyên truyền các thành quả nghiên cứu về giới, tính đa dạng dân tộc và văn hóa để phục vụ tốt hơn cho phụ nữ, các dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế khác, bảo đảm tiếp cận và truyền thông trong việc thúc đẩy các chương trình và chính sách của Chính phủ; xây dựng môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và năng lực của các chủ doanh nghiệp là phụ nữ.

Tích cực mở rộng quan hệ quốc tế và tăng cường hoạt động đối ngoại, đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương với nhiều đối tác là tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có yếu tố nước ngoài nhằm nâng cao vị thế của nữ trí thức Việt Nam trên trường quốc tế.

Cuối cùng: Một số vấn đề cơ bản nhưng cấp bách trước mắt

"Bộ tứ chiến lược" là nền tảng quan trọng để tạo nên đột phá thực chất, thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững; là bước khởi đầu cho một cuộc cách mạng phát triển mới, không chỉ bằng chính sách mà còn bằng một tư duy phát triển hiện đại, tích hợp và chủ động. Đó là "tổ hợp" chính sách có tính kiến tạo, thống nhất và bổ trợ nhau phát triển.

Trước mắt, báo chí cùng Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp tiếp tục:

Theo chương trình phối hợp tổng thể, tiếp tục phổ biến các mô hình phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo, STEM dành cho nữ sinh, chuyển đổi số ở phụ nữ. Tuyên truyền về khát vọng phát triển dựa trên tri thức, công nghệ. Định hình hình ảnh người phụ nữ thời đại mới: tri thức - sáng tạo - bản lĩnh.

Các cơ quan nghiên cứu khoa học về phụ nữ phối hợp với báo chí mở chuyên trang các vấn đề: bình đẳng giới trong các hiệp định thương mại, tiêu chuẩn lao động quốc tế, tôn vinh doanh nhân nữ, hỗ trợ về truyền thông cho hộ kinh doanh do phụ nữ làm chủ; biểu dương gương mặt nữ trí thức Việt trên toàn cầu, phụ nữ Việt khởi nghiệp tại nước ngoài.

Báo chí của phụ nữ cùng hệ thống báo chí tiên phong phổ biến luật liên quan đến hôn nhân, bạo lực giới, bảo vệ trẻ em; tham gia giám sát, phản biện xã hội, phản ánh bất cập trong chính sách và thực thi pháp luật về giới.

Truyền thông xứng đáng hình ảnh phụ nữ Việt Nam hội nhập: qua kinh tế, giáo dục, văn hóa.

* * *

Kinh nghiệm lịch sử 100 năm qua xác tín, không có cuộc vận động cách mạng nào thành công như mong đợi nếu không có sự tham gia của báo chí. Đối với phụ nữ và phong trào phụ nữ, càng không nằm ngoài tính quy luật đó.

Nói một cách hình ảnh, đó không chỉ là sứ mệnh vẻ vang và trách nhiệm thiêng liêng mà còn là danh dự cao cả và uy tín vô song của báo chí cách mạng Việt Nam đối với phụ nữ, vì và cho phong trào phụ nữ, vì sự tiến bộ toàn diện của phụ nữ trong Kỷ nguyên mới, mà năm 2025 kỷ niệm 95 năm thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

TS. Nhị Lê - nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/bao-chi-voi-bo-tu-chien-luoc-gop-phan-nang-cao-quyen-nang-cua-phu-nu-trong-ky-nguyen-moi-20250617120215804.htm
Zalo