Bàn về dự thảo Nghị định cho IFC: Lợi ích, rủi ro và bài toán cân bằng

Trung tâm Tài chính Quốc tế (IFC) tại Việt Nam đang ở 'giờ G' khi nghị định khung chuẩn bị được ban hành. Kỳ vọng thu hút dòng vốn ngoại ngày càng lớn, nhưng đâu sẽ là cơ chế then chốt để giữ chân các nhà đầu tư? Bài toán cân bằng giữa ưu đãi, minh bạch và quản trị rủi ro sẽ quyết định sức hút thực sự của IFC.

Triển vọng của IFC giờ phụ thuộc vào các Nghị định mà Chính phủ yêu cầu ban hành gấp trong tháng 8-2025. NHNN đã kịp thời xây dựng Dự thảo Nghị định quy định về cấp phép thành lập và hoạt động ngân hàng, quản lý ngoại hối, phòng chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố... tại Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam. Do vậy các thảo luận và phản biện chính sách, gợi ý thủ tục rút gọn là cần thiết để kịp hiệu lực và tránh khoảng trống thể chế. Điều này có nhiều ý nghĩa cho việc hoàn thiện nội hàm nghị định trong thời điểm quyết định này.

Trung tâm Tài chính Quốc tế (IFC) tại Việt Nam đang ở “giờ G” khi nghị định khung chuẩn bị được ban hành. Ảnh: Lê Vũ

Trung tâm Tài chính Quốc tế (IFC) tại Việt Nam đang ở “giờ G” khi nghị định khung chuẩn bị được ban hành. Ảnh: Lê Vũ

Điểm tranh luận đầu tiên là ngưỡng 1.000 đô la phải báo cáo bắt buộc trong giao dịch chuyển tiền quốc tế tại trung tâm này. Về lý thuyết, quy định này nhằm kiểm soát rửa tiền và ngăn chặn việc trung tâm tài chính bị lợi dụng làm kênh chuyển vốn vòng từ trong nước ra ngoài. Về chuẩn mực, ngưỡng 1.000 đô la không xa lạ, mà là một phần của FATF R.16 yêu cầu minh bạch trong các giao dịch thanh toán xuyên biên giới. Song trên thực tế, ngưỡng này quá thấp so với phần lớn giao dịch tại trung tâm tài chính quốc tế. Hệ quả là hầu như mọi giao dịch đáng kể đều bị kéo vào diện giám sát, làm gia tăng chi phí tuân thủ, giảm tốc độ xử lý và vô tình gửi đi tín hiệu về sự kiểm soát hành chính nặng nề.

Vấn đề cốt lõi không nằm ở con số 1.000 đô la, mà ở cách triển khai. Ngưỡng 1.000 đô la chỉ yêu cầu giao dịch kèm thông tin đầy đủ để phục vụ truy vết, nếu yêu cầu hơn, cơ quan giám sát sẽ nhanh chóng bị quá tải dữ liệu, trong khi hiệu quả phòng chống rửa tiền không tăng tương xứng. Nên chăng vẫn là giữ chuẩn 1.000 đô la để đảm bảo tương thích quốc tế, nhưng chuyển trọng tâm sang giám sát dựa trên rủi ro, tăng cường báo cáo giao dịch đáng ngờ và ứng dụng RegTech/SupTech để phân tích dữ liệu lớn, phát hiện kịp thời các tín hiệu bất thường. Đây là điểm nên xem xét điều chỉnh trong dự thảo nghị định để IFC có thể có sức cạnh tranh ngay từ vạch xuất phát.

Điểm tranh luận thứ hai là ở cơ chế cấp Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Trung tâm tài chính quốc tế, cũng như trao thẩm quyền giám sát. Dự thảo hiện đưa ra hai phương án: (i) trong 5 năm đầu, NHNN trực tiếp cấp Giấy phép cho NHTM và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, sau đó mới chuyển giao cho Cơ quan giám sát TTTC; hoặc (ii) ngay từ đầu trao thẩm quyền cấp phép cho Cơ quan giám sát TTTC để cơ quan này hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Về mặt quản trị rủi ro, phương án thứ nhất thể hiện sự thận trọng trong giai đoạn khởi đầu, khi IFC chưa có tiền lệ và còn thiếu kinh nghiệm vận hành. NHNN vốn đã có năng lực và kinh nghiệm nên có thể giúp giảm thiểu rủi ro cả về kinh tế lẫn thể chế. 5 năm được hình dung là khoảng thời gian đủ để cơ quan mới tích lũy năng lực, chủ động tiếp nhận và quản trị, nhưng chính khoảng đệm này lại đáng bàn, có thể quá dài so với chu kỳ phát triển của một trung tâm tài chính.

Kinh nghiệm từ Astana International Financial Centre (AIFC) cho thấy, chỉ sau 7 năm hình thành đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Cơ quan này hoạt động theo thông luật Anh, chịu trách nhiệm cấp phép, giám sát và giải quyết tranh chấp, hoàn toàn độc lập với Ngân hàng Trung ương sở tại. Mô hình “độc lập theo chuẩn quốc tế” đã tạo cảm giác quen thuộc và an toàn cho nhà đầu tư đã từng trải nghiệm giao dịch ở trung tâm tài chính quốc tế lớn.

Đối chiếu với Việt Nam, phương án 2, trao ngay thẩm quyền cấp phép cho Cơ quan giám sát TTTC, gần với mô hình Astana, phát đi tín hiệu mạnh mẽ về tính độc lập và quốc tế hóa, song cũng đòi hỏi năng lực quản trị cao ngay từ đầu. Dưới góc nhìn nhà đầu tư quốc tế, phương án 2 hấp dẫn hơn vì quen thuộc và thể hiện quyết tâm hội nhập thực chất. Nếu lựa chọn phương án 1, cần cân nhắc liệu 5 năm có phải khoảng thời gian hợp lý hay quá dài, khiến IFC mất cơ hội tăng trưởng nhanh. Trong trường hợp này, nên quy định rõ trong Nghị định lộ trình và thời điểm chuyển giao. Bởi lẽ, cơ chế cấp phép không chỉ là chi tiết kỹ thuật, mà còn là thước đo mức độ quốc tế hóa của IFC.

Một điểm quan trọng khác là mục tiêu của dự thảo Nghị định cần được làm rõ. Mục tiêu hiện tại đề cập đến việc xây dựng IFC nhằm thu hút tối đa vốn quốc tế, phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và phòng chống rửa tiền. Việc đặt ra cùng lúc bốn mục tiêu này có thể dẫn đến tình trạng bất khả thi: vừa kỳ vọng thu hút vốn tối đa, vừa yêu cầu an toàn tuyệt đối. Hơn hết, cần bàn về mục tiêu cốt lõi của dự thảo, bởi nếu mục tiêu chưa rõ ràng thì khó có thể thiết kế điều khoản hợp lý.

Dựa trên những luận điểm trên có thể đưa ra một số đề xuất cho nghị định này nhằm thiết lập khung pháp lý đặc thù cho Trung tâm Tài chính Quốc tế. Cụ thể, tập trung vào cấp phép thành lập và hoạt động ngân hàng, quản lý ngoại hối, bảo đảm trung tâm vận hành độc lập, phát triển hệ sinh thái dịch vụ tài chính đạt chuẩn quốc tế, thu hút dòng vốn quốc tế, công nghệ và nhân lực chất lượng cao, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, qua đó bảo đảm an ninh tài chính và ổn định hệ thống ngân hàng trong nước.”

Mục tiêu này có cấu trúc rõ ràng. Mở đầu bằng động từ “thiết lập” cùng cụm “khung pháp lý đặc thù” tập trung ngay vào kết quả kỳ vọng, khẳng định đây là một hành lang riêng, linh hoạt cho TTTC hoạt động. Đặc biệt, cụm “đạt chuẩn quốc tế” và ‘tuân thủ chuẩn mực quốc tế” vừa thể hiện sự tham chiếu rõ ràng đến các chuẩn toàn cầu, vừa đóng vai trò như cái neo pháp lý để quá trình thiết kế hành lang quy định có cơ sở chắc chắn. Theo đó, mỗi mục tiêu gắn với hành động rõ ràng, có thể đo lường và triển khai thành quy định cụ thể, hợp lại định hình nghị định như một tuyên ngôn về chính sách thực thi.

Một nghị định được thiết kế rõ ràng đúng chuẩn quốc tế sẽ không chỉ khai mở cho IFC tại TPHCM, mà còn khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ tài chính toàn cầu.

(*) Viện Nghiên cứu và Phát triển Công Nghệ Ngân hàng, Trường ĐH Kinh tế - Luật, Đại học Quốc Gia TPHCM

PGS.TS. Phạm Thị Thanh Xuân (*)

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/ban-ve-du-thao-nghi-dinh-cho-ifc-loi-ich-rui-ro-va-bai-toan-can-bang/
Zalo