'Bàn thờ thiêng' - Đền thờ Trình Minh, làng Ngọc Chuế
Tôi ở xã Hà Trung, viết bài này để nói về ông Trình Minh, ở xã Lĩnh Toại, không phải vì 'thấy người sang bắt quàng làm họ'. Quê gốc ông ở xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (cũ), tỉnh Thanh Hóa. Tuy là người nơi khác đến, nhưng ông Trình Minh lại có công khai phá lập ra làng và truyền nghề làm ăn cho người làng Ngọc Chuế, xã Hà Châu, huyện Hà Trung (cũ), nay là xã Lĩnh Toại.
Ông là bậc tướng tài năng đã có công lớn giúp rập nhà Đinh dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt đứng đầu là Đinh Bộ Lĩnh (tự xưng là Đinh tiên hoàng đế) ở thế kỷ X. Sau khi ông mất, dân làng Ngọc Chuế đã tưởng nhớ công lao to lớn của ông mà lập đền để hương khói phụng thờ đến bây giờ. Ngôi đền thờ Trình Minh vẫn được làng Ngọc Chuế xây dựng mới trên nền đất cũ ở chân núi Phượng Lĩnh. Điều đó chính là thể hiện tình cảm “cốt nhục” của dòng họ Trình danh giá đã dành cho ông - Khởi thủy Tổ tiên họ Trình trong cả nước.
Đền thờ Tướng Công Trình Minh, ở làng Ngọc Chuế, xã Lĩnh Toại, tỉnh Thanh Hóa được dòng họ Trình đóng góp hàng tỷ đồng khôi phục đẹp đẽ khang trang và giữ nét cổ kinh uy nghiêm
Theo lịch sử địa phương, làng Ngọc Chuế nằm ở ven chân núi Ngọc Chuế hay là núi Cổ Phượng - Phượng Lĩnh - Vân Cô. Dãy núi đất ở độ cao 50 mét, kéo dài từ làng Ngọc Chuế chếch về phía Tây - xã Hà Lai (cũ), xa hơn nữa về phía Nam là núi Tây Mỗ - xã Hà Thái (cũ). Từ triều vua Đinh Tiên Hoàng - thế kỷ X, ven núi Phượng đã có người đến tụ cư lập làng sinh cơ lập nghiệp. Làng Ngọc Chuế dần dà đông đúc, dân tụ cư từ sườn núi phía Bắc sang phía Đông và phía Nam núi Phượng Lĩnh. Lúc đầu làng mang tên Chuế Khu, sau xin nhà Lý đổi thành Kim Chuế, và Ngọc Chuế, xã Thái Lai, năm 1954 thuộc xã Hà Lai. Từ năm 1973 làng Ngọc Chuế thuộc xã Hà Châu (cũ), đến tháng 7/2025 thuộc xã Lĩnh Toại.
Tìm hiểu đôi chút về thân thế, gia đình và sự nghiệp của ông, được biết võ tướng Trình Minh là thủy tổ họ Trình và là người lập ra làng Xuyết Khu vào thời Đinh - thế kỷ X. Bố ông là Trình Đạt, mẹ là Đặng Thị Huy đều ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (cũ). Nhưng theo gia phả họ Trình và “sự tích làng Ngọc Xuyết thì huyện Lôi Dương thuộc phủ Kinh Môn, Đạo Hải Dương. Còn các nhà viết sách thì nói thuộc phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa (sách Địa chí huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa). Ông có 4 người con là Thế Chân, Thế Thành, Thế An và Thế Duyệt… Tương truyền, năm ông 14 tuổi theo học Hoàng tiên sinh và nổi tiếng là người sáng dạ, ham học “văn chương hơn người, tinh thông võ nghệ, bạn bè nể phục, khen là thần đồng (theo Đinh Trung thần Trình Tướng Công phả lục). Lên 20 tuổi, bố mẹ ông đều mất, Trình Minh đành phải bỏ dở việc học hành rồi dời đến vùng Nga Sơn lập nghiệp (giáp với chân núi Phượng Lĩnh, huyện Tống Sơn) có nhiều lợi thế về phong thủy. Lúc đầu, ở khu đất Trang Thạch Lỗi phía Bắc sườn núi Phượng Lĩnh có vài gia đình họ Mai ở, ông được mời dạy học cho con cái họ. Ông và Mai Đức Xương kết nghĩa anh em rồi chiêu mộ dân chúng các nơi, tăng thêm vài chục gia đình, khai khẩn đất hoang hàng trăm mẫu ruộng, nuôi trâu kéo. Làng Chuế Khu do ông lập ra với các dòng họ Trình, Vũ, Lê, Trương…
Bối cảnh đất nước lúc bấy giờ xảy ra nhiều biến động, nhất là từ khi Ngô Quyền (…) và Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn (con trai Ngô Quyền) mất, các thế lực phong kiến (mười hai sứ quân) thừa cơ nổi dậy cát cứ gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau để lại nhiều tổn thất mất mát và đau khổ cho người dân. Trước tình thế nguy cấp đó, tại Hoa Lư Ninh Bình, Đinh Bộ Lĩnh khởi binh để dẹp loạn. Chớp lấy thời cơ, Trình Minh dẫn đầu cùng với trai tráng làng Chuế Khu đến yết kiến Đinh Bộ Lĩnh và được Đinh Bộ Lĩnh cử làm mưu sĩ kiêm Đẳng Nhung Sự. Trình Minh đã tham gia chỉ huy nhiều trận phối hợp lực lượng nghĩa binh đánh tan lực lượng nổi loạn, góp phần chấm dứt thời kỳ “loạn mười hai sứ quân”, lập nền thống nhất đất nước. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Vì có công lao dẹp loạn, Trình Minh được vua Đinh sắc phong là Minh Tự Khanh, ban thưởng cho đất đai, sau đó ông trở về sống ở Chuế Khu…

Hơn 10 thế kỷ trôi qua, người và đất làng Ngọc Chuế trải qua thăng trầm, đổi thay cùng đất nước. Theo người dân truyền lại, đền thờ Tướng Công Trình Minh được xây dựng dưới triều đại tiền Lê (Lê Hoàn). Tương truyền, ngày 10/3 năm Giáp Dần (1014), Trình Minh lâm bệnh và mất ở quê cũ làng Trung Lập, hưởng thọ 74 tuổi. Ông được triều đình nhà Lý phong là Phúc Nhạc tôn thần và giao cho làng Kim Xuyết lập đền phụng thờ. Đến thời Hậu Lê-Nguyễn, Trình Minh được các triều vua phong 15 đạo sắc, trong đó vua Bảo Đại (Nguyễn Vĩnh Thụy) phong sắc “Trác vĩ thượng đẳng thần” cho ông. Sau khi mất, làng Kim Xuyết lập đền thờ ông theo kiểu chữ đinh (J), gồm 3 gian tiền đường, 1 gian hậu cung, phía trước là nghinh môn (cổng ra vào), nhà khách để sắp lễ. Vật đổi sao dời, thời gian phôi pha, cảnh quan diện mạo đổi thay, ngôi đền trầm mặc cổ kính không còn nữa, đồ tế tự cũng bị thất lạc, mất mát. Năm 1997, đền thờ Trình Minh, làng Ngọc Chuế, xã Hà Lai (cũ) được Sở Văn hóa-Thông tin Thanh Hóa ra quyết định xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa” để bảo tồn phát huy giá trị.
Thời gian gần đây (2013), trên nền đất cũ tại sườn đồi Phượng Lĩnh, làng Ngọc Chuế phủ một màu xanh điệp trùng, dòng họ Trình đã góp của góp công hàng tỷ đồng xây dựng đền thờ Tướng Công Trình Minh đẹp khang trang, nét kiến trúc truyền thống cổ kính uy nghiêm. Tại dòng họ Trình, làng Ngọc Chuế hiện đang lưu giữ cẩn thận tại gia đình ông trưởng tộc tập “Trình tộc phả ký” - tài liệu gốc quý giá với nội dung ngợi ca công đức và sự nghiệp hiển hách của Phúc Nhạc tôn thần Tướng Công Trình Minh ở thế kỷ X.
Đền thờ Trình Minh - “Bàn thờ thiêng” dòng họ Trình cả nước, con cháu khắp nơi tụ hội về dự lễ giỗ ông vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm để tri ân vị Thủy tổ từng có công dẹp giặc giữ nước cách đây trên 10 thế kỷ. Từ đó, giáo dục cho các thế hệ truyền thống biết ơn công đức các bậc tiền nhân, tiếp tục đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau xây dựng gia đình, dòng họ, quê hương, đất nước phát triển ngày càng giàu đẹp, hạnh phúc, văn minh.