Bạn không thể thành công chỉ nhờ vào trí tuệ
Người ta mặc định ai cũng phải có sẵn kỹ năng đối phó cảm xúc, nhưng lại không được khuyến khích tìm kiếm sự hỗ trợ để phát triển những kỹ năng đó, thậm chí còn cảm thấy xấu hổ khi thừa nhận mình gặp khó khăn.
Khi tôi còn học cao học ngành tâm lý học lâm sàng, tôi nhận ra rằng những kiến thức tôi tiếp thu gần như chỉ giới hạn trong khuôn viên trường và trong sách giáo khoa. Vào thời điểm đó, không hề có lớp học nào về "trí tuệ cảm xúc” ở trường trung học hay đại học. Mọi người không đổ xô lên mạng xã hội để bàn luận về “giao tiếp lành mạnh", "thiết lập ranh giới" hay "tư duy phát triển".
Thiền vẫn còn là một khái niệm xa lạ. Và ý tưởng về việc ưu tiên sức khỏe tinh thần chắc chắn chưa được xem là bình thường. Ngày nay, những khái niệm này đã trở nên phổ biến hơn, nhưng vào thời điểm đó, nếu bạn không theo học ngành tâm lý, gần như không có nhiều thông tin về cách xây dựng và duy trì các mối quan hệ theo hướng tâm lý học.

Làm chủ cảm xúc đòi hỏi kỹ năng. Ảnh: Clevenard.
Người ta mặc định ai cũng phải có sẵn kỹ năng đối phó cảm xúc, nhưng lại không được khuyến khích tìm kiếm sự hỗ trợ để phát triển những kỹ năng đó, thậm chí còn cảm thấy xấu hổ khi thừa nhận mình gặp khó khăn. Điều này đặc biệt đúng trong môi trường làm việc, và tôi đã tận mắt chứng kiến điều đó qua người bạn cùng phòng của mình khi ấy - Monica.
Monica đang gặp khó khăn. Công ty khởi nghiệp nhỏ mà cô ấy làm vừa bị một tập đoàn lớn thâu tóm, và cô ấy đột ngột bị cuốn vào một bộ máy khổng lồ. Nhìn từ bên ngoài, công ty này vận hành hiệu quả và có lợi nhuận cao. Nó thu hút những nhân viên xuất sắc nhất - những người thông minh, đầy tham vọng, có động lực và chăm chỉ.
Nhìn chung, họ đều sở hữu những phẩm chất "đúng chuẩn" để thành công. Nói cách khác, họ có đầy đủ các kỹ năng chuyên môn cần thiết để làm tốt công việc. Nhưng đêm nào đi làm về Monica cũng than thở công ty này thực sự là một cơn ác mộng. Có thể thấy rõ cô ấy đang cảm thấy quá tải và kiệt sức.
Theo thời gian, sau nhiều bữa ăn đặt về, chúng tôi dần nhận ra rằng công ty đã mắc phải một số sai lầm tự nhiên nhưng lại khá phổ biến: giao tiếp giữa các bộ phận kém hiệu quả, ban lãnh đạo để lộ những vấn đề cảm xúc cá nhân vào công việc, và sự thấu hiểu dành cho nhân viên - cả trong và ngoài công việc - gần như không tồn tại.
Tất cả đều xuất phát từ việc xem nhẹ hoặc đánh giá thấp những kỹ năng mềm quan trọng (một thuật ngữ vô tình làm giảm đi mức độ quan trọng và sự phức tạp của những kỹ năng này). Mọi người trong công ty đều có kiến thức kinh doanh và hiểu biết về sản phẩm để thúc đẩy doanh số và lợi nhuận, nhưng không phải ai cũng có trí tuệ cảm xúc để tạo ra một môi trường làm việc tích cực và hợp tác.
Ban lãnh đạo dường như cũng không quan tâm đến việc cải thiện điều này, ngay cả khi tỷ lệ nhân viên nghỉ việc tăng vọt và tốc độ tăng trưởng chững lại. Ai cũng đổ lỗi cho công ty, nhưng tôi nhìn thấy bản chất vấn đề: để một tổ chức có thể phát triển bền vững, từng cá nhân bên trong nó cần cảm thấy được hỗ trợ để trở thành phiên bản khỏe mạnh nhất của chính mình.
Công ty đang thất bại vì những con người tạo nên nó đang gặp khó khăn. Dù họ thông minh. Sáng tạo. "Đỉnh của chóp", nhưng họ không thể thành công chỉ nhờ vào trí tuệ hay tài năng. Và công ty cũng vậy. Điều này đúng trong ngành công nghệ, và cũng đúng trong mọi lĩnh vực cũng như trong cuộc sống: mỗi ngày, dù muốn hay không, chúng ta đều mang theo cảm xúc của mình vào công việc. Vậy tại sao xã hội lại thường đề cao kỹ năng chuyên môn hơn là trí tuệ cảm xúc và khả năng kết nối giữa con người với nhau?
Một vấn đề lớn xuất phát từ những định kiến và hiểu lầm về cảm xúc cũng như sức khỏe tinh thần nói chung. Vào thời điểm đó, việc đi trị liệu bị coi như một điều cấm kỵ, và mọi người bị ngăn cản ngay cả khi chỉ muốn đề cập đến sức khỏe tinh thần của mình - trừ khi họ đang rơi vào một cuộc khủng hoảng thực sự. Nhưng ngay cả khi đó, họ vẫn bị đánh giá vì đã để bản thân rơi vào khủng hoảng!
Khi giúp Monica vượt qua những bức xúc trong công việc, tôi bắt đầu tự hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu mọi người không chờ đợi quá lâu mới đối mặt với "con quỷ" bên trong đã giày vò họ bấy lâu và tìm sự giúp đỡ? Liệu sức khỏe tinh thần có thể trở thành một thực hành chủ động hơn không? Nếu chúng ta không đợi đến khi mọi thứ sụp đổ mới bắt đầu quan tâm đến sức khỏe tinh thần và cảm xúc của mình thì sao?
Từ đó, tôi tiếp tục đặt ra một câu hỏi khác: Nếu chúng ta đối xử với sức khỏe cảm xúc giống như cách chúng ta chăm sóc thể chất thì sao? Liệu chúng ta có thể thay đổi cách nhìn nhận về việc chăm sóc tinh thần, để nó giống như việc đi tập gym hơn là đi khám bác sĩ không? Và điều này sẽ thế nào trong môi trường làm việc - nơi chiếm hết khoảng một phần ba cuộc đời chúng ta?
































