Bài 2: Tìm một thể chế cho nuôi biển công nghiệp

Nhận thức sâu sắc và đúng đắn về vai trò của biển và kinh tế biển với tương lai của đất nước, ngày 9-2-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra Nghị quyết số 09-NQ/TW 'Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020'.

Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, tháng 10-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW "Về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Đảng ta xác định mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn với những quyết sách cụ thể về kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Hiện tại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Hiệp hội nuôi biển Việt Nam (VSA) đang phối hợp xây dựng chiến lược phát triển nuôi biển bền vững đến năm 2030-tầm nhìn 2045 và sẽ sớm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với mục tiêu phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia hàng đầu về công nghiệp nuôi biển trong khối ASEAN và châu Á, tốp 5 thế giới về sản lượng và giá trị xuất khẩu hải sản nuôi. Theo đó đến năm 2020 diện tích nuôi biển 270.000ha (6.000ha xa bờ); thể tích lồng nuôi 8 triệu mét khối (hai triệu mét khối xa bờ), sản lượng đạt 710.000 tấn (80.000 tấn xa bờ), giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 500-700 triệu USD; và đến năm 2030 là 300.000ha (30.000ha xa bờ) diện tích nuôi biển, 10 triệu mét khối lồng nuôi (3.500.000 m3 xa bờ), sản lượng đạt 1.750.000 tấn (690.000 tấn xa bờ), giá trị xuất khẩu hải sản nuôi đạt 4-6 tỷ USD.

Nội dung cốt lõi của chiến lược nuôi biển này sẽ là những kế sách để thực hiện các mục tiêu cụ thể trên và là lời giải đầy đủ, trọn vẹn nhất cho câu hỏi: Hướng đi nào cho nuôi biển Việt Nam?

Đó là câu hỏi lớn và khó trả lời cho rành rọt đối với các các nhà quản lý, các nhà khoa học, các doanh nhân và những người trực tiếp nuôi biển. Nuôi biển, nhất là nuôi biển khơi hoàn toàn khác với nuôi trồng nước ngọt hoặc ven bờ như lâu nay chúng ta đã làm, đang làm. Biển sâu sóng dữ buộc những người nuôi biển phải có những cách tiếp cận mới thân thiện hơn với biển. Đã đến lúc không thể xem biển là cái kho dự trữ vô tận mà phải xem đó là không gian sinh tồn, là “cánh đồng” cuối cùng nhưng vô cùng rộng lớn của nhân loại. Con người phải sống cùng với biển, phải giữ lấy biển mà tồn tại. Phải có cách ứng xử mới với biển như cựu sĩ quan Hải quân Pháp Jacques Cousteau (1910-1987) từng nói: “Cần phải đối xử với đại dương như người nông dân thay vì thợ săn. Cần văn minh canh tác thay vì săn bắt”.

Phát triển nuôi biển là thúc bách nhưng phải hài hòa, bền vững, phải tôn trọng và cân đối giữa nhiều mục tiêu, nhiều lợi ích, giữa kinh tế và an ninh, giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn… Bởi vậy, nuôi biển hiện nay và về sau phải đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao hơn, đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nuôi biển phải làm cho biển sạch hơn, an toàn hơn. Nuôi biển phải làm cho dân an bình hơn, sung túc hơn. Điều đó buộc những người nuôi biển phải có tri thức phong phú hơn, công nghệ, thiết bị hiện đại hơn và một thể chế quản lý mới phù hợp, hiệu quả hơn.

Nuôi biển Việt Nam không thể thoát ly khỏi xu thế chung của ngành công nghiệp nuôi biển thế giới mà muốn phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, cần thiết phải có cách tiếp cận vấn đề mới để thiết kế một thể chế quản lý mới trên nền tảng khoa học công nghệ mới.

Vẫn cơ bản là về thể chế, chính sách; về tổ chức sản xuất; về khoa học công nghệ; về xây dựng thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại, nhưng theo PGS, TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch VSA, thể chế đó phải dựa trên ba trụ cột là: 1) Chủ thể là cộng đồng doanh nghiệp, biến ngư nhân thành doanh nhân; lựa chọn các hợp tác xã và các hộ gia đình nuôi biển để hỗ trợ xây dựng các trại nuôi biển công nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến hải sản (và các ngành khác) đầu tư trại nuôi biển công nghiệp, mở rộng chuỗi giá trị về hướng tạo nguồn nguyên liệu và hậu cần dịch vụ phục vụ nuôi biển công nghiệp. Chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ thành các doanh nghiệp khoa học làm đầu tàu cung cấp các sản phẩm công nghệ cao cho toàn chuỗi giá trị nuôi biển công nghiệp. Phát triển các doanh nghiệp chuyên trách các dịch vụ cung ứng đầu vào (giống, thức ăn, thiết bị nuôi) và dịch vụ đầu ra (thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến, thương mại) cho người nuôi biển. 2) Động lực của ngành nuôi biển là công nghệ tiên tiến. Đó là công nghệ sinh sản nhân tạo hải sản có giá trị cao; công nghệ chế tạo phương tiện nuôi biển tiên tiến, hoạt động ổn định lâu dài trong điều kiện khắc nghiệt, có thể chịu được bão cấp 12-14; công nghệ sản xuất và cung cấp thức ăn tự động đến từng lồng nuôi, tùy chỉnh theo cỡ cá, tình trạng thời tiết, tính ăn của cá; công nghệ sinh hóa chiết xuất và tinh chế các sản phẩm sinh học, tận dụng tối đa phụ phế liệu, xây dựng ngành không chất thải; công nghệ số và công nghệ tự động hóa nuôi biển, ứng dụng IoI và AI tự động quan sát hoạt động của vật nuôi, tự động điều tiết thức ăn, cảnh báo dịch bệnh; công nghệ tự động real-time kiểm soát môi trường biển. 3) Tích hợp đa ngành, bao gồm: Ngành nuôi hải sản (công nghệ nuôi đa loài tích hợp IMTA cá, giáp xác, nhuyễn thể, rong biển; ngành dầu khí (sử dụng các giàn khoan dầu khí đã cạn thành trung tâm phục vụ nuôi biển khơi; ngành du lịch (phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch biển mới kết hợp với các trại nuôi biển xa bờ; ngành đóng tàu (cung cấp tàu hậu cần, xà lan phun thức ăn và các thiết bị cơ khí chuyên dụng); ngành năng lượng (cung cấp điện gió cho các trang trại, phát triển năng lượng tái tạo trên biển, phát điện bằng sinh khối tảo…); và đặc biệt là các lực lượng an ninh, quốc phòng trên biển, không chỉ bảo đảm an ninh cho các trại nuôi biển mà còn có thể nghiên cứu đầu tư chuỗi liên hợp lồng nuôi công nghiệp biển khơi.

Theo nhận định của các nhà khoa học, các nhà quản lý tại các diễn đàn thảo luận về chiến lược kinh tế biển, về nuôi biển, thể chế quản lý này là phù hợp với xu thế chung của thế giới, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, đáp ứng được những mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp mà Nghị quyết số 09-NQ/TW và Nghị quyết số 36-NQ/TW của Đảng đã đề ra.

Tuy nhiên, đó chỉ mới là mở hướng ra, còn đi ra như thế nào, bước gần, bước xa ra làm sao phải có một kế hoạch chi tiết, một lộ trình hợp lý, phù hợp với các điều kiện cụ thể, với “cơ địa” văn hóa, chính trị và kinh tế của Việt Nam và từng địa phương.

PHAN VĂN THẮNG

(còn nữa)

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/bai-2-tim-mot-the-che-cho-nuoi-bien-cong-nghiep-593134
Zalo