Áp dụng thuế giá trị gia tăng mới: Doanh nghiệp nông sản lo phải gánh thêm áp lực
Từ ngày 1/7/2025, Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 chính thức có hiệu lực. Đây được xem là bước điều chỉnh quan trọng nhằm hoàn thiện chính sách thuế, mở rộng cơ sở thu, tiệm cận với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, thực tiễn đã xuất hiện nhiều băn khoăn, đặc biệt với nhóm hàng nông, lâm, thủy sản vốn là những lĩnh vực nhạy cảm và liên quan trực tiếp đến sinh kế của hàng chục triệu nông dân.
Doanh nghiệp lo ngại “tắc nghẽn” dòng vốn
Việc mặt hàng gạo chuyển từ diện không chịu thuế sang chịu thuế suất 5% đang tạo ra nhiều luồng tranh luận. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) bày tỏ lo ngại rằng thay đổi này sẽ khiến doanh nghiệp phải gánh thêm áp lực vốn lớn, làm giảm khả năng thu mua lúa từ nông dân và ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh.

Với doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn lưu động vốn đã hạn chế, nay càng khó xoay vòng, làm giảm khả năng thu mua lúa từ nông dân
Theo quy định mới, gạo sẽ phải kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng 5% ở khâu bán ra trong nước. Với gạo xuất khẩu, doanh nghiệp vẫn áp dụng thuế suất 0%, song phải thực hiện cơ chế “nộp trước - hoàn sau”. Nghĩa là doanh nghiệp buộc phải ứng vốn để nộp thuế giá trị gia tăng, sau đó chờ cơ quan thuế hoàn lại.
Ông Trương Thanh Phong, đại diện VFA cho biết, gạo là mặt hàng khối lượng lớn, doanh thu tính bằng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Chỉ cần doanh nghiệp phải tạm nộp 5% giá trị gia tăng rồi chờ hoàn cũng đủ tạo ra sự tồn đọng vốn rất lớn. Với doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn lưu động vốn đã hạn chế, nay càng khó xoay vòng, làm giảm khả năng thu mua lúa từ nông dân.
Thực tế, không ít doanh nghiệp lo ngại nếu thời gian hoàn thuế kéo dài, họ sẽ phải vay ngân hàng để bù đắp dòng tiền, kéo theo chi phí tài chính tăng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh mà còn có nguy cơ làm giá thu mua lúa giảm, nông dân chịu thiệt trực tiếp.
Với đặc thù mùa vụ, nông dân thường bán lúa ngay sau thu hoạch. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn để thu mua nhanh, nông dân buộc phải bán rẻ hoặc chịu cảnh tồn đọng hàng hóa.
PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, chuyên gia kinh tế phân tích, thuế giá trị gia tăng là sắc thuế gián thu, cuối cùng người tiêu dùng phải gánh. Nhưng trong chuỗi giá trị nông sản, những mắt xích yếu nhất thường là nông dân và doanh nghiệp nhỏ. Chính vì vậy, việc thay đổi thuế suất gạo từ 0% sang 5% nếu không có cơ chế linh hoạt sẽ tạo hiệu ứng dây chuyền, gây bất lợi cho những đối tượng cần được hỗ trợ nhất.
Ông nam cho rằng chính sách thuế cần đặt trong bối cảnh đặc thù của ngành hàng. Gạo là mặt hàng chiến lược, vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa mang lại kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD mỗi năm. Một chính sách có thể hợp lý về mặt lý thuyết, nhưng nếu làm giảm sức cạnh tranh hay ảnh hưởng trực tiếp đến nông dân, cần phải cân nhắc lại.
Không chỉ gạo, nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy sản cũng phát sinh vướng mắc. Điểm khó nhất là xác định đâu là sản phẩm “sơ chế” và đâu là “chế biến” để áp mức thuế phù hợp.
Ông Lê Văn Quang, Tổng giám đốc công ty cổ phần Tập đoàn thủy sản Minh Phú chia sẻ, tôm đông lạnh bóc vỏ có được xem là sơ chế hay chế biến? Cá phi lê đông lạnh thì tính thế nào? Chỉ cần cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan thuế địa phương đã khiến doanh nghiệp lúng túng, chưa kể rủi ro bị truy thu sau này.
Các doanh nghiệp lâm sản cũng chung tình trạng tương tự. Gỗ xẻ, gỗ dăm, viên nén sinh học… hiện chưa có hướng dẫn chi tiết để phân loại thuế suất. Điều này tạo ra khoảng trống pháp lý, tiềm ẩn nguy cơ khiếu nại và tranh chấp.
Giải pháp để luật đi sát thực tiễn
Để Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 thực sự đi vào cuộc sống mà không gây sốc cho doanh nghiệp và nông dân, nhiều chuyên gia, hiệp hội đề xuất các giải pháp: Cần ban hành sớm nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết, đặc biệt về tiêu chí phân biệt “sơ chế” và “chế biến”. Điều này sẽ giúp cơ quan thuế thống nhất cách hiểu, tránh tình trạng mỗi nơi một kiểu.
Với mặt hàng gạo, có thể cân nhắc giữ nguyên mức thuế suất 0% cho cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trường hợp vẫn áp dụng thuế suất 5% trong nước thì với gạo xuất khẩu nên cho phép khấu trừ ngay, thay vì cơ chế nộp rồi hoàn, để tránh gây “tắc nghẽn” vốn. Đồng thời, cần cải cách thủ tục hoàn thuế theo hướng nhanh, minh bạch, áp dụng công nghệ số để rút ngắn thời gian giải quyết.
Với doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thủy sản vốn có doanh thu lớn và thường xuyên xuất khẩu cần có cơ chế hoàn thuế định kỳ, giảm thiểu tình trạng đọng vốn; hỗ trợ nông dân và hợp tác xã bằng cách đơn giản hóa thủ tục hóa đơn điện tử trong giao dịch với doanh nghiệp. Nếu không, họ sẽ gặp khó trong việc chứng minh nguồn gốc hàng hóa, dễ bị ép giá.
Nhiều ý kiến cũng đề nghị duy trì kênh đối thoại chính sách định kỳ giữa Bộ Tài chính và hiệp hội ngành hàng để kịp thời ghi nhận và tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai.

Cần ban hành sớm nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết, đặc biệt về tiêu chí phân biệt “sơ chế” và “chế biến”.
Mục tiêu của Luật Thuế giá trị gia tăng là mở rộng cơ sở thu, tăng nguồn thu cho ngân sách và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp là nơi sinh kế của hàng triệu hộ dân thì chính sách cần tính đến đặc thù để cân bằng lợi ích.
Ông Nguyễn Ngọc Nam, Chủ tịch VFA nhấn mạnh, chúng tôi ủng hộ chủ trương cải cách thuế. Nhưng với gạo đang là một mặt hàng chiến lược thì cần có chính sách đặc thù. Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong vốn, nông dân sẽ là người chịu ảnh hưởng trực tiếp.
Theo Luật số 48/2024/QH15, các nông sản chịu thuế giá trị gia tăng 0% gồm: nông sản từ Việt Nam bán cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài và được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam; 5% gồm: Sản phẩm cây trồng, rừng trồng (trừ gỗ, măng), chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường…; 10% gồm: Các sản phẩm đã qua chế biến sâu.