Ai tri âm đó, mặn mà với ai?
Mới đây nghe phát biểu của PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội về vấn đề giáo dục nghệ thuật khiến người viết cũng 'giật mình' với chính điều mà mình cũng trăn trở lâu nay. Hỏi nhiều trường giáo dục chuyên nghiệp về nghệ thuật cấp vùng, đã có truyền thống đào tạo khá dày, về vấn đề tuyển sinh ngành mỹ thuật, được biết nay tuyển sinh 'không được' vì không có thí sinh.
Vậy thì làm sao có một nền nghệ thuật trong tương lai? Mà có phải chăng, trong xã hội, đi đâu ta cũng thấy mỹ thuật hiện diện, một góc phố, một ngôi nhà, một đường làng. Nếu nhiều trường mỹ thuật không tuyển sinh được, hay chỉ “vét” được những thí sinh không biết học ở đâu, thì nền mỹ thuật của nước nhà sẽ như thế nào?
Mỹ thuật cổ truyền dân gian thì các nghệ nhân truyền nghề, lại có truyền nhân hay không? Cũng như vậy, các trường mỹ thuật là bộ máy cái “đẻ” ra những chiếc máy con, để từ đây những “chiếc máy” này sẽ tự lớn lên, tự trở nên cá tính, một số trở thành nhân tài, làm đầu tàu cho một nền mỹ thuật.
Thử hỏi, nếu không có trường Mỹ thuật Đông Dương, thì có thể có một thế hệ họa sĩ “mỹ thuật Đông Dương” tài danh hay không? Mặt khác, nếu không giáo dục nghệ thuật căn cơ, từ nhà trường phổ thông, thì trình độ nghệ thuật của công chúng sẽ như thế nào? Tự thẩm định chỉ bằng cảm tính với nhau chăng?
Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường chuyên nghiệp nếu tạo ra được những nghệ sĩ lớn, dù rất ít, cũng là OK rồi! Vì tài năng nghệ thuật bao giờ cũng hiếm như lá mùa thu. Học nghệ thuật không phải ai cũng trở thành nghệ sĩ. Nhưng tác dụng phái sinh rất quan trọng của nó dễ thường ít người để ý: Nó giúp nâng cao trình độ thẩm thấu nghệ thuật của công chúng, của cả xã hội. Không có lớp công chúng với trình độ thưởng thức nghệ thuật cao, liệu có nền nghệ thuật cao hay chăng?
Người viết sực nhớ câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều: Ai tri âm đó, mặn mà với ai? Đó là nhà thơ nhắc lại tích xưa, chuyện giữa Bá Nha và Tử Kỳ đời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, gảy đàn giỏi, tình cờ gặp Tử Kỳ là danh sĩ ẩn dật trên núi, người cảm thấu ngón đàn của mình, trở thành “tri âm”. Khi quay lại nơi đã gặp gỡ để tìm bạn, thì Tử Kỳ đã chết, Bá Nha bèn đập vỡ cây đàn. Khi không có bạn “tri âm” thì ngón đàn hay cũng trở nên vô ích.
Câu chuyện gợi ta suy nghĩ về mối quan hệ giữa nghệ sĩ và công chúng, hay người sáng tạo và người thưởng thức. Người sáng tạo cũng cần người thưởng thức. Tiếng đàn hay mà lớp công chúng thiếu trình độ thưởng thức thành ra “đàn gảy tai trâu”.
Trong lịch sử nghệ thuật có người từng nói mình sáng tạo chỉ cần để cho mình thưởng thức, “một mình mình biết, một mình mình hay”, không cần ai khác. Cái ấy tùy thích của người nghệ sĩ. Nhưng nếu muốn tác động rộng rãi tới công chúng thì phải được công chúng yêu thích. Công chúng có trình độ cảm nhận nghệ thuật cao, thì người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm chất lượng cao sẽ có cơ hội tốt. Nhược bằng trình độ thẩm mỹ của công chúng là thấp, thì người sáng tạo tầm thường, chạy theo thị hiếu lại có cơ hội hơn, và hệ quả là nền nghệ thuật khó mà nâng tầm.
Nói chung nếu muốn có nghệ thuật đỉnh cao thì không thể không có công chúng có trình độ thẩm mỹ cao. Thật sự băn khoăn nhiều bởi trường mỹ thuật mà tuyển sinh không có người, hoặc chỉ “bòn mót” được những sinh viên không năng khiếu, làng nhàng, thì làm sao cho ra họa sĩ tài danh. Cũng như trong nhà trường phổ thông mà việc giáo dục nghệ thuật kém, thì làm sao có lớp công chúng có trình độ thẩm mỹ cao, Ai tri âm đó, mặn mà với ai!
Cái khó chính là vậy. Cho nên mới trộm nghĩ, nhà nước và mọi người cần suy ngẫm ra những giải pháp, mang tính “đặc thù” nào đó cho giáo dục nghệ thuật.






























