AI tạo sinh: 'Lối thoát' hay 'hộp đen' cho giáo dục Việt Nam?
Để AI tạo sinh trở thành 'lối thoát' thực sự cho giáo dục Việt Nam, các cơ sở giáo dục và giảng viên phải ưu tiên sử dụng AI nguồn mở và áp dụng tư duy phản biện khi sử dụng đầu ra.
Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) là các tài liệu giảng dạy, học tập và nghiên cứu thuộc phạm vi công cộng hoặc được phát hành theo giấy phép mở, cho phép người dùng truy cập, sử dụng lại, chỉnh sửa và chia sẻ miễn phí. Chúng bao gồm sách giáo khoa, giáo trình, bài tập, video, phần mềm và nhiều loại tài liệu khác.
Để AI tạo sinh trở thành "lối thoát" thực sự cho giáo dục Việt Nam, các cơ sở giáo dục và giảng viên phải ưu tiên sử dụng AI nguồn mở và áp dụng tư duy phản biện khi sử dụng đầu ra.
Việc sử dụng thiếu kiểm soát AI nguồn đóng có thể biến nền giáo dục thành một "hộp đen" nguy hiểm, mang lại rủi ro pháp lý và nội dung.
Phóng viên Tạp chí Một Thế Giới đã có dịp trao đổi với ông Lê Trung Nghĩa, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu, Đào tạo và Phát triển Tài nguyên Giáo dục Mở (thuộc Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam), nhằm làm rõ các nội dung về AI trong tài liệu 'Khung năng lực Tài nguyên Giáo dục Mở cho giảng viên V3.0'.

Ông Lê Trung Nghĩa, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu, Đào tạo và Phát triển Tài nguyên Giáo dục Mở (thuộc Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam)
Ông Lê Trung Nghĩa đã có những chia sẻ thẳng thắn và rõ ràng về mối quan hệ song hành giữa AI và OER, cùng những khuyến nghị quan trọng để các giảng viên, giáo viên khai thác công nghệ này một cách liêm chính và hiệu quả.
- Thưa ông, với tư cách là một nhà nghiên cứu về tài nguyên giáo dục mở (OER), ông đánh giá thế nào về vai trò của trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc tự động hóa, tối ưu hóa quá trình tìm kiếm, sàng lọc và điều chỉnh OER cho phù hợp với bối cảnh giảng dạy cụ thể của Việt Nam?
- Ông Lê Trung Nghĩa: Về đánh giá này, tôi thấy AI, đặc biệt là AI tạo sinh (Generative AI), có mối liên hệ chặt chẽ với tài nguyên giáo dục mở.
Nghiên cứu trên thế giới đã chỉ rõ: đầu ra của AI tạo sinh không đủ điều kiện để được bảo vệ bản quyền theo luật hiện hành. Đồng thời, nó cũng không đủ điều kiện để cấp các giấy phép mở trong hệ thống Creative Commons (CC) mà OER hay dùng.
Hệ thống Creative Commons (CC) là một tổ chức phi lợi nhuận cung cấp các giấy phép bản quyền miễn phí, cho phép người sáng tạo cấp phép cho người khác sử dụng tác phẩm của họ (như nhạc, ảnh, văn bản) theo các điều kiện nhất định, thay vì bảo lưu mọi quyền như bản quyền truyền thống.
Trong trường hợp đó, đầu ra của AI tạo sinh sẽ tự động nằm trong phạm vi công cộng. Theo định nghĩa OER của UNESCO năm 2019, tài nguyên giáo dục mở có thể là các tài liệu nằm trong phạm vi công cộng hoặc có bản quyền và được cấp phép mở.
Như vậy, khi đầu ra của AI tạo sinh nằm trong phạm vi công cộng, theo định nghĩa OER, nó chính là tài nguyên giáo dục mở. Tôi có thể khẳng định: AI tạo sinh phát triển nhanh và mạnh bao nhiêu, thì tài nguyên giáo dục mở cũng phát triển nhanh và mạnh bấy nhiêu. Hai bên song hành cùng nhau.
Tuy nhiên, có một lưu ý chi tiết: việc đầu ra của AI là OER không thể khẳng định nội dung đó đảm bảo chất lượng. OER có loại được thẩm định và chưa được thẩm định; còn đầu ra của AI là tài nguyên chưa được thẩm định.
- Ông có đề cập đến cả mặt tích cực và tiêu cực của AI. Vậy theo ông, rào cản lớn nhất đang ngăn cản giảng viên Việt Nam tận dụng tối đa sức mạnh của AI để thực hiện các năng lực OER theo Khung 3.0 là gì?
- Ông Lê Trung Nghĩa: Khung năng lực OER 3.0 là tài liệu do Viện chúng tôi cùng Đại học Nguyễn Tất Thành xây dựng. Bản chất nó là một OER được cấp phép mở (CC BY-SA), bất kỳ ai trên thế giới cũng dùng được.
Rào cản lớn nhất nằm ở nguy cơ tiềm ẩn từ mặt tiêu cực của AI. Nghiên cứu trên thế giới cho thấy, AI tích cực có 15 điểm tốt thì AI tiêu cực lại có đến 20 điểm nguy cơ. Câu chuyện chúng ta ứng dụng và phát triển AI phải tính đến điều này.
Điều quan trọng nhất là nguy cơ từ việc sử dụng AI nguồn đóng. Khi dùng AI nguồn đóng, chúng ta không nhìn thấy gì trong thành phần của nó: không mã nguồn, không dữ liệu đào tạo, không tài liệu liên quan.
Có khả năng là chúng ta bị thao túng, bị dẫn dắt. Đối với những vấn đề nhạy cảm, nếu không cẩn thận, nội dung AI đưa ra có thể xung đột với những chính sách mà Nhà nước, Đảng, Chính phủ đã ban hành. Ví dụ: Dữ liệu đào tạo AI có tuân thủ luật sở hữu trí tuệ không, hay là vi phạm? Nghị định về bảo vệ quyền riêng tư cá nhân: Dữ liệu có tuân thủ không?
Nếu dựa vào dữ liệu đóng, chúng ta không nhìn thấy được sự vi phạm, rất dễ sinh ra rủi ro.
- Vậy giải pháp nào để giảng viên có thể khai thác được AI mà vẫn duy trì được tính liêm chính, chất lượng trong OER?
- Ông Lê Trung Nghĩa: Để đảm bảo tính liêm chính và chất lượng, tôi gợi ý giảng viên và các cơ sở giáo dục nên tựa vào các mô hình AI nguồn mở.
Đối với người sử dụng (giảng viên) và nhà phát triển, cần minh bạch và tùy chỉnh dựa trên các mô hình ngôn ngữ lớn nguồn mở, chúng ta có thể nhìn thấy được mã nguồn, dữ liệu đào tạo và tài liệu liên quan. Qua đó, chúng ta có thể tùy chỉnh để mô hình phù hợp với các luật, các quy định của Chính phủ Việt Nam.

AI tạo sinh phát triển nhanh và mạnh bao nhiêu, thì tài nguyên giáo dục mở cũng phát triển nhanh và mạnh bấy nhiêu.
Ông Lê Trung Nghĩa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu, Đào tạo và Phát triển Tài nguyên Giáo dục Mở
Tận dụng được các dữ liệu lớn mà cộng đồng đã dùng để đào tạo AI nguồn mở, tránh được khó khăn trong việc tự tạo ra lượng dữ liệu đủ lớn từ đầu tại Việt Nam.
Đồng thời nhìn thấy được nếu có xu hướng hay nội dung nào xung đột với luật pháp Việt Nam thì mình tránh được. Cơ sở giáo dục còn phải sử dụng thêm dữ liệu riêng của chính bản thân mình để đưa vào huấn luyện.
Điều này chứng minh rằng nên sử dụng AI nguồn mở. Bởi khi được cấp phép mở, về bản chất, người tạo ra đã cho phép bất kỳ ai trên thế giới được phép truy cập, sử dụng lại, tùy chỉnh và phân phối lại, giống như định nghĩa của OER.
- Ông có đề xuất nào về việc thực hiện các khung năng lực AI song song với Khung năng lực OER 3.0 không?
- Ông Lê Trung Nghĩa: Để khai thác AI an toàn, chúng ta cần theo các khung năng lực AI. Hiện tại, tôi thấy có hai khung năng lực AI đã được ban hành:
Khung năng lực AI của UNESCO năm 2024: Đặc biệt chú ý đến hai khía cạnh là tư duy lấy con người làm trung tâm và đạo đức AI.
Khuyến nghị về đạo đức AI của UNESCO năm 2021: Tài liệu này nói rõ việc tuân thủ các luật (như Luật Sở hữu trí tuệ, Nghị định về bảo vệ quyền riêng tư cá nhân) là bắt buộc. Nếu không có vấn đề đạo đức AI, chúng ta sẽ rất nguy hiểm nếu cứ lấy bất kỳ dữ liệu gì để huấn luyện AI mà không kiểm soát.
- Thưa ông, thông điệp cuối cùng của ông đến cộng đồng giáo viên Việt Nam trong việc thích nghi và làm chủ AI để thực hiện Khung năng lực OER 3.0 trong kỷ nguyên số là gì?
- Ông Lê Trung Nghĩa: Thông điệp cuối cùng dành cho cộng đồng giáo viên trong việc thích nghi và làm chủ AI để thực hiện Khung năng lực OER 3.0 là: Phải có tư duy phản biện.
Sử dụng AI, chúng ta phải biết là AI nó có cái hay và có cái dở. Ai cũng phải có tư duy phản biện, đặc biệt là tư duy phản biện khi sử dụng AI: Biết khi nào nó đúng, biết khi nào nó sai; biết khi nào nên dùng và không dùng. Chứ không phải AI là tất tần tật đúng.
Điều này là nguy hiểm cực kỳ, bởi vì là cái tích cực thì có 15 điểm, cái tiêu cực là có 20 điểm, nếu mà không cẩn thận là mình vỡ toang cái đó.
- Xin cảm ơn ông về những chia sẻ này!
AI nguồn mở (Open Source AI) là các hệ thống trí tuệ nhân tạo mà các thành phần cốt lõi như mã nguồn, mô hình và đôi khi là dữ liệu đào tạo đều được công bố công khai, miễn phí sử dụng, nghiên cứu, sửa đổi và chia sẻ. Mô hình này thúc đẩy sự hợp tác và minh bạch trong phát triển, cho phép các nhà phát triển, nhà nghiên cứu và người dùng cuối tùy chỉnh, cải tiến và xây dựng các ứng dụng AI dựa trên những gì đã có sẵn.
AI nguồn đóng có nghĩa là mã nguồn bị giới hạn sử dụng riêng tư và người dùng không thể thay đổi hoặc xây dựng dựa trên mã nguồn đó; chỉ có công ty sở hữu nó mới có thể.































