80 năm Ngoại giao Việt Nam: Một hành trình đặc biệt

Tám thập kỷ qua, Việt Nam luôn kiên định đường lối đối ngoại vì mục tiêu cao nhất: Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Bác Hồ nói chuyện với cán bộ, nhân viên Bộ Ngoại giao tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ nhất vào tháng 3/1957. (Ảnh: Tư liệu)

Bác Hồ nói chuyện với cán bộ, nhân viên Bộ Ngoại giao tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ nhất vào tháng 3/1957. (Ảnh: Tư liệu)

Sự nhất quán này là di sản quý báu từ tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam cho đối ngoại Việt Nam hiện nay.

Dấu ấn ngoại giao Hồ Chí Minh

Tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dựa trên thực tiễn cách mạng và lợi ích dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự lực, tự cường. Người từng nói: Phải trông ở thực lực. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn.

Chiến lược đối ngoại của Việt Nam được định hướng bởi những nguyên tắc cốt lõi trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, bao gồm giữ vững đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù và đặc biệt coi trọng quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và tất cả các nước lớn. Trong mỗi cuộc chiến tranh vệ quốc, Việt Nam đều giành thắng lợi về ngoại giao nhờ vào thành công quân sự và sự khéo léo trong vận dụng thực tiễn đối ngoại.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, Hiệp định Geneva 1954 đã chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17 và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được công nhận ở miền Bắc. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, mang lại lệnh ngừng bắn và buộc Mỹ rút toàn bộ lực lượng quân sự. Quân đội nhân dân Việt Nam sau đó đã đánh bại chính quyền Sài Gòn hoàn toàn vào năm 1975 và đất nước được thống nhất với tên gọi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976.

Việt Nam cũng giành thắng lợi trong xung đột với Khmer Đỏ ở Campuchia. Tháng 9/1989, Việt Nam hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia. Hai năm sau, vào tháng 10/1991, Hiệp định Paris về Campuchia đạt được thỏa thuận chính trị toàn diện, mở ra một thời kỳ hòa bình và giúp Việt Nam tập trung cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội.

Giáo sư Carlyle A. Thayer (thứ hai từ phải) trong một hội thảo về Việt Nam. (Nguồn: Getty Images)

Giáo sư Carlyle A. Thayer (thứ hai từ phải) trong một hội thảo về Việt Nam. (Nguồn: Getty Images)

Mở đường hội nhập

Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam khởi xướng đường lối Đổi mới, trong đó Báo cáo chính trị của Tổng Bí thư Trường Chinh nhấn mạnh yêu cầu mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại – mở ra quá trình hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng.

Một dấu mốc quan trọng khác là vào tháng 5/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13/NQ-TW "Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới". Nghị quyết chỉ rõ "yếu kém về kinh tế, bị bao vây cô lập, cấm vận là những nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập của đất nước". Do đó, nhiệm vụ ưu tiên là xây dựng nền kinh tế mạnh, quốc phòng vững chắc và mở rộng hợp tác quốc tế. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh phương châm đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa – theo tinh thần "thêm bạn, bớt thù". Đồng thời xác định các nhiệm vụ chiến lược: giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, tăng cường quan hệ với ASEAN, Nhật Bản và các nước châu Âu…

Nghị quyết 13 được đánh giá là cột mốc lớn trong quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam. Kể từ đó, tất cả các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo đều tiếp tục khẳng định và bổ sung đường lối này. Tại Đại hội VII (tháng 6/1991), Báo cáo chính trị khẳng định Việt Nam sẽ "đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế với tất cả các nước và tổ chức kinh tế...".

Báo cáo chính trị tại Đại hội VII cũng nêu rõ: "Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với các nước không phân biệt chế độ chính trị – xã hội, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình". Mục tiêu của Việt Nam là phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương, hợp tác cùng có lợi với các nước Bắc và Tây Âu, Nhật Bản và các nước phát triển khác, và bình thường hóa quan hệ với Mỹ...

Bước phát triển tiếp theo trong chính sách đối ngoại diễn ra tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (giữa năm 1996). Tại Đại hội này, lần đầu tiên, các đoàn đại biểu của các Đảng cầm quyền Campuchia, Malaysia và Singapore tham dự. Báo cáo chính trị đánh giá rằng, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển nhanh chóng, thúc đẩy các lực lượng sản xuất và đẩy mạnh toàn cầu hóa kinh tế và đời sống xã hội. Vì vậy, Việt Nam cần "tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và ASEAN, củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, đồng thời coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm chính trị – kinh tế thế giới".

Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4/2001) tiếp tục khẳng định: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước" thông qua chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa, ưu tiên quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, láng giềng và bạn bè truyền thống. Đại hội X (tháng 4/2006) xác định Việt Nam: thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ X, hai xu hướng chủ đạo ngày càng nổi bật: Chủ động hội nhập quốc tế và xây dựng mạng lưới đối tác chiến lược toàn diện.

Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam khởi xướng đường lối Đổi mới. (Ảnh tư liệu)

Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam khởi xướng đường lối Đổi mới. (Ảnh tư liệu)

Ngoại giao toàn diện

Đến Đại hội Đảng XI (tháng 1/2011), mở rộng cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, lần đầu tiên đưa ra yêu cầu thực hiện các cam kết trong các FTA thế hệ mới. Đại hội cũng khẳng định tầm quan trọng của các đối tác chiến lược và các cường quốc trong phát triển đất nước, đồng thời bổ sung yếu tố mới: Tham gia các cơ chế quốc phòng, an ninh đa phương – đặc biệt là ASEAN và các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Đại hội Đảng XII (năm 2016) lần đầu tiên đưa ra khái niệm "ngoại giao toàn diện" với ba trụ cột: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đại hội cũng nhấn mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thông qua Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).

Đến Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm 2021), Việt Nam một lần nữa khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; làm bạn, đối tác tin cậy, thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Một điểm mới là nhấn mạnh vai trò của đối ngoại trong việc xây dựng chiến lược phát triển quốc gia toàn diện, đồng thời khẳng định tiếp tục thực hiện chính sách "bốn không" trong quốc phòng.

Tổng kết lại, 80 năm phát triển của nền ngoại giao Việt Nam đã không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế, ngày càng khẳng định vai trò của một quốc gia tầm trung đang vươn lên mạnh mẽ. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, mở rộng mạng lưới đối tác toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện lên 38 nước, hai lần đảm nhiệm vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, ba lần giữ chức Chủ tịch ASEAN, trở thành đối tác thứ mười của BRICS. Việt Nam đã ký hiệp định thương mại với hơn 60 quốc gia và nền kinh tế và là thành viên của 70 tổ chức quốc tế, khu vực đa phương.

Carlyle A. Thayer

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/80-nam-ngoai-giao-viet-nam-mot-hanh-trinh-dac-biet-328304.html