80 năm Độc lập - Chương IV: Gỡ nút thắt, mở cánh cửa hội nhập
Đầu thập niên 1990, Việt Nam đứng trước bước ngoặt lịch sử của công cuộc Đổi Mới, vừa nỗ lực vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, vừa từng bước phá vỡ vòng vây cô lập và cấm vận kéo dài nhiều năm.



Trong bối cảnh đó, đối ngoại được xác định là mũi đột phá chiến lược để tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác, để có thể đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, mở ra không gian phát triển mới.
Khi ấy, thế giới bước sang thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, nơi đối đầu ý thức hệ dần nhường chỗ cho xu thế hợp tác, hội nhập và toàn cầu hóa. Trong làn sóng chuyển động mạnh mẽ, các quốc gia Đông Nam Á sớm nhận ra rằng, chỉ bằng cách tăng cường liên kết và củng cố sức mạnh tập thể mới có thể đứng vững và vươn lên phát triển.
Những “nút thắt” lịch sử trong quan hệ giữa các nước ở khu vực từng bước được tháo gỡ, trở thành chất xúc tác cho sự hòa giải, gắn kết và hợp tác. Những rào cản của quá khứ dần nhường bước cho niềm tin và thiện chí để các nước xích lại gần nhau, cùng nỗ lực phấn đấu cho hòa bình, ổn định và phát triển.
Sự gặp gỡ giữa khát vọng đổi mới của Việt Nam với mong muốn mở rộng hợp tác của ASEAN, cùng hội tụ với xu thế hòa bình, phát triển của thế giới đã đưa đến cho Việt Nam cơ hội “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.


Nhìn lại 30 năm tham gia ASEAN, có thể thấy Việt Nam đi từ chỗ học việc, làm quen và bắt kịp đến tham gia tích cực vào công việc của hiệp hội, sau đó chuyển sang giai đoạn đồng hành và tham gia kiến tạo tầm nhìn và con đường đi mới cho ASEAN.
Đại sứ Phạm Quang Vinh - nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, là người trực tiếp đóng góp vào quá trình Việt Nam tham gia sâu vào ASEAN. Ông đảm nhiệm vị trí Trưởng SOM (Hội nghị các quan chức cao cấp) ASEAN của Việt Nam trong hơn 7 năm (2007-2014).
Chia sẻ với Tiền Phong, Đại sứ Phạm Quang Vinh cho biết ông làm Trưởng SOM ASEAN Việt Nam trong giai đoạn vừa dài vừa đầy thử thách nhưng cũng rất nhiều dấu ấn.
Đại sứ Phạm Quang Vinh nhắc lại giai đoạn 2008-2009, đáng lẽ Thái Lan là nước đầu tiên thực hiện nhiệm vụ đưa Hiến chương ASEAN vào bộ máy mới. Tuy nhiên, năm 2009, Thái Lan gặp trục trặc vì làn sóng biểu tình trong nước.

Quốc kỳ Việt Nam được đội tiêu binh Brunei rước qua các vị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các quan chức tham dự lễ kế kéo cờ Việt Nam tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở Bandar Seri Begawan.

Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (thứ hai từ phải sang), Tổng Thư ký ASEAN và các ngoại trưởng ASEAN tại cuộc họp kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức của khối.

Hội nghị cấp cao Đông Á ngày 30/10/2010 tại Việt Nam
Đến năm 2010, khi đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam thực tế đã xây dựng phương thức làm việc của ASEAN, với cơ chế gồm hai hội nghị cấp cao mỗi năm, giữa năm là hội nghị bộ trưởng ngoại giao hoặc kinh tế. Nền nếp mà Việt Nam tạo ra từ đó đến nay cơ bản vẫn được thực hiện.
Cũng vào năm 2010, Việt Nam chủ động tham vấn các nước trong khối nhằm đạt được thỏa thuận về vấn đề mở rộng Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) để mời Nga và Mỹ tham gia. EAS là diễn đàn được lãnh đạo của 16 quốc gia Đông Á và khu vực lân cận tổ chức, trong đó ASEAN đóng vai trò trung tâm. EAS lần thứ nhất diễn ra năm 2005 tại Kuala Lumpur (Malaysia), với sự tham dự của lãnh đạo các nước ASEAN và 6 nước đối tác, gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand.
Trong suốt mấy năm, quá trình tham vấn về việc mời Mỹ và Nga tham gia vào Hội nghị cấp cao Đông Á chưa đạt được sự thống nhất. Đến năm 2010, Việt Nam tiến hành tham vấn nội bộ ASEAN để tạo đồng thuận chung, sau đó tham vấn các nước đối tác.

Đến tháng 10/2010, Hội nghị cấp cao ASEAN và EAS chính thức mời Nga và Mỹ tham gia. Đó là lần đầu tiên EAS có đầy đủ những đối tác quan trọng nhất của ASEAN và trở thành cấu trúc quan trọng hàng đầu khu vực do ASEAN dẫn dắt.
Trong vấn đề Biển Đông, vào thời điểm năm 2009, các nước ASEAN đang xây dựng kế hoạch tổng thể về chính trị - an ninh (sau này là một trụ cột của Cộng đồng ASEAN) và tìm ra những lĩnh vực cần ưu tiên.
Khi đó Việt Nam đề xuất ưu tiên vấn đề thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Có thành viên lo ngại điều này sẽ làm gia tăng “cọ xát” giữa ASEAN và Trung Quốc.
Đại sứ Phạm Quang Vinh cho biết, khi đó đoàn Việt Nam thẳng thắn khẳng định rằng DOC là văn kiện cấp cao mang tính lịch sử mà ASEAN và Trung Quốc đạt được, có giá trị rất quan trọng trong hợp tác ASEAN - Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.
Việt Nam cũng nhấn mạnh rằng DOC quy định phải tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, giải quyết hòa bình các tranh chấp, bảo đảm các biện pháp kiềm chế và xây dựng lòng tin. Đó không chỉ là những nguyên tắc được thừa nhận giữa ASEAN và Trung Quốc mà còn là những nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Vì vậy, việc ASEAN bàn bạc với Trung Quốc và nhấn mạnh DOC sẽ đóng góp cho hòa bình ổn định ở Biển Đông cũng như ở khu vực.
Những lập luận đó của Việt Nam đã được chấp nhận. Trong các cuộc họp của ASEAN kể từ đó, Biển Đông thường xuyên được đưa lên bàn nghị sự, trở thành vấn đề quan tâm chung của khu vực.
Khi Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN năm 2020 của Việt Nam, đại dịch COVID-19 ập đến khiến cả thế giới phải đóng cửa và cách ly. Đối mặt với cuộc khủng hoảng y tế trăm năm có một, Việt Nam vẫn nỗ lực dẫn dắt ASEAN, chuyển sang hình thức họp trực tuyến để bảo đảm ASEAN vừa thích ứng với tình huống cấp bách vừa tiếp tục thực hiện những mục tiêu lâu dài về xây dựng Cộng đồng, phát triển kinh tế, đảm bảo hòa bình an ninh và hợp tác với các đối tác. Năm đó, một loạt chương trình được các nước ASEAN triển khai theo sáng kiến của Việt Nam, như kế hoạch hỗ trợ nhau về trang thiết bị, vật tư y tế và vắc xin, lập các kho dự trữ nguyên vật liệu y tế và kế hoạch phục hồi kinh tế sau đại dịch…
Trong khi đó, Việt Nam vẫn tiếp tục thúc đẩy các chương trình lâu dài của ASEAN, đặc biệt là kiểm điểm giữa kỳ và xây dựng nền tảng để các nước bắt đầu quá trình tham vấn và xây dựng Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025.

Nhìn lại 30 năm Việt Nam tham gia ASEAN, các nước trong và ngoài khu vực đều đánh giá rằng sự kiện Việt Nam tham gia ASEAN không chỉ là dấu mốc lịch sử đối với Việt Nam mà đối với cả ASEAN. Trong các hoạt động và thành quả của ASEAN đều có đóng góp mang tính xây dựng tích cực và ý nghĩa của Việt Nam.
GS Carl Thayer, một học giả người Úc có nhiều năm nghiên cứu về Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy đưa Campuchia, Lào và Myanmar (CLM) trở thành thành viên ASEAN. Sau đó, Việt Nam đóng vai trò dẫn dắt trong việc hỗ trợ thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các thành viên CLM mới và các thành viên phát triển hơn của ASEAN.
GS Thayer cũng nhấn mạnh, khi đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN lần thứ hai vào năm 2010, Việt Nam vận động thành công việc mở rộng thành viên cấp cao Đông Á bao gồm Mỹ và Nga. Việt Nam cũng tổ chức cuộc họp đầu tiên của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng tại Hà Nội.

GS Carl Thayer. Ảnh: Reuters
GS Thayer nhận định, khi Việt Nam gia nhập ASEAN, hiệp hội trở thành một trong những tổ chức khu vực thành công nhất trong các nước đang phát triển. ASEAN dần tăng số lượng cơ chế đa phương do hiệp hội dẫn dắt, từ Diễn đàn Khu vực ASEAN đến ASEAN+3, Diễn đàn Biển ASEAN mở rộng, Hội nghị cấp cao Đông Á, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng, Hội nghị ASEAN-châu Âu…Những bước phát triển đó giúp Việt Nam mở rộng mạng lưới quan hệ ngoại giao cả song phương và đa phương.
GS Stephen Nagy, công tác tại Đại học Cơ đốc giáo quốc tế - Nhật Bản, cho rằng việc Việt Nam ủng hộ và thúc đẩy sự thống nhất của ASEAN dựa trên cơ chế đồng thuận giúp đảm bảo sự thống nhất, không một thành viên nào phải hy sinh chủ quyền hoặc lo sợ bị can thiệp vào chính trị nội bộ. Điều này củng cố nguyên tắc “bốn không” trong chính sách quốc phòng và phương châm của Việt Nam là làm bạn với tất cả các nước.
GS Thayer đánh giá, ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là đóng góp cho hòa bình và an ninh khu vực nhằm nâng cao triển vọng hợp tác kinh tế. Khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành thành viên của Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) và học hỏi kinh nghiệm từ các nền kinh tế phát triển hơn. Từ AFTA, Việt Nam tích lũy kinh nghiệm và ngày càng tự tin vào hợp tác đa phương khi ASEAN đàm phán các hiệp định thương mại tự do với Úc - New Zealand, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và Hong Kong (Trung Quốc).

Tháng 7/1995, Việt Nam và Mỹ chính thức bình thường hóa quan hệ. Đó là khoảnh khắc mang tính lịch sử không chỉ vì hai quốc gia khép lại trang sử đối đầu, mà còn mở ra cánh cửa hội nhập rộng lớn với Việt Nam.
Cánh cửa ấy dẫn tới một bước ngoặt khác vào tháng 7/2000, khi Hiệp định Thương mại song phương (BTA) Việt Nam – Mỹ được ký kết. Kể từ đó, thị trường Mỹ – nền kinh tế lớn nhất thế giới – không còn là giấc mơ xa với hàng hóa Việt. Hàng dệt may, da giày, thủy sản… Việt Nam bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều trên các kệ hàng ở New York, Los Angeles, San Francisco và nhiều thành phố khác của Mỹ.


Đàm phán với Mỹ là “cửa ải” khó nhất. Tháng 5/2006, sau 12 vòng đàm phán hai bên mới ký được thỏa thuận. Đó là mảnh ghép cuối cùng để hoàn tất hồ sơ WTO, khép lại giai đoạn 11 năm trường kỳ với hơn 200 cuộc đàm phán.
Gia nhập WTO, Việt Nam bước vào một “sân chơi” hoàn toàn mới: hàng rào thuế quan giảm mạnh, thị trường xuất khẩu mở rộng ra hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, vốn đầu tư nước ngoài đổ vào dồn dập. Các ngành dệt may, thủy sản, gỗ… bứt tốc, trong khi môi trường kinh doanh buộc phải minh bạch và chuyên nghiệp hơn. WTO không chỉ mang đến cơ hội, nó còn đặt Việt Nam trước bài kiểm tra về năng lực cạnh tranh, về khả năng thích ứng với luật chơi toàn cầu.
Năm 1995, khi đất nước vừa mới bình thường hóa quan hệ với Mỹ và trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO - lúc đó tên là GATT). Ban Công tác về việc Việt Nam xin gia nhập tổ chức này được thành lập.
Theo Bộ Công Thương, trong những năm đầu, trọng tâm là minh bạch hóa chính sách thương mại và giải đáp hàng trăm câu hỏi từ các thành viên WTO về cơ chế quản lý, thuế quan, và quyền kinh doanh. Có những bảng câu hỏi dày tới cả trăm trang, yêu cầu giải thích cặn kẽ từng quy định pháp luật, từng biểu thuế, thậm chí cả cách thức cấp phép kinh doanh ở từng ngành.
Theo lời kể của nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự – Trưởng đoàn đàm phán WTO của Việt Nam, từ năm 1998, các vòng đàm phán song phương và đa phương bắt đầu diễn ra dồn dập. Mỗi vòng kéo dài cả tuần, thường kết thúc muộn trong đêm. Đoàn Việt Nam phải mang theo nhiều chồng tài liệu, liên tục điều chỉnh từng con số để tìm điểm cân bằng giữa yêu cầu mở cửa của đối tác và khả năng chịu đựng của nền kinh tế trong nước.
Đàm phán với Mỹ là “cửa ải” khó nhất. Tháng 5/2006, sau 12 vòng đàm phán hai bên mới ký được thỏa thuận. Đó là mảnh ghép cuối cùng để hoàn tất hồ sơ WTO, khép lại giai đoạn 11 năm trường kỳ với hơn 200 cuộc đàm phán.
Gia nhập WTO, Việt Nam bước vào một “sân chơi” hoàn toàn mới: hàng rào thuế quan giảm mạnh, thị trường xuất khẩu mở rộng ra hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, vốn đầu tư nước ngoài đổ vào dồn dập. Các ngành dệt may, thủy sản, gỗ… bứt tốc, trong khi môi trường kinh doanh buộc phải minh bạch và chuyên nghiệp hơn. WTO không chỉ mang đến cơ hội, nó còn đặt Việt Nam trước bài kiểm tra về năng lực cạnh tranh, về khả năng thích ứng với luật chơi toàn cầu.
Từ cú bắt tay lịch sử giữa Việt Nam và Mỹ năm 1995 đến cột mốc WTO năm 2007, Việt Nam đã đi một chặng đường 12 năm đầy thử thách, nhưng cũng mang lại thành quả rực rỡ.

Gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải sửa đổi hoặc ban hành hàng chục đạo luật và văn bản dưới luật, từ luật thương mại, luật đầu tư, luật sở hữu trí tuệ đến các quy định về hải quan và thuế.
Nhìn lại chặng đường hội nhập của Việt Nam, Đại sứ Phạm Quang Vinh nhấn mạnh rằng từ một nước đi sau trong ASEAN với quy mô nền kinh tế năm 1995 chỉ gần 21 tỷ USD, đến 2024 tăng lên gần 480 tỷ USD, tức là gấp hơn 20 lần. Năng lực hội nhập của Việt Nam cũng tăng lên mạnh mẽ. Từ những bước chập chững đầu tiên trong hội nhập khi tham gia AFTA, Việt Nam nay đã có 17 hiệp định tự do thương mại, trong đó có nhiều hiệp định chất lượng cao như CPTPP, EVFTA, RCEP.
GS Thayer thì tin tưởng rằng chương trình tinh giản bộ máy mà Việt Nam đang thực hiện sẽ thành công, giúp Việt Nam có thêm sự tự tin và nguồn lực để đảm nhận vai trò chủ động hơn ở khu vực và trên thế giới, từ đó tạo nên sức mạnh tổng hợp để Việt Nam đạt được mục tiêu dài hạn đã đề ra là trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
