80 mùa Thu lịch sử của 'những trái tim không thể chết'
Từ tháng Tám năm 1945, mùa Thu này là mùa Thu thứ 80 dân tộc Việt Nam trở thành một nước độc lập dân chủ cộng hòa. Nhớ lại một chặng đường lịch sử oanh liệt của dân tộc là thời gian mọi người dân Việt Nam tưởng nhớ những liệt sĩ, những người vị quốc vong thân, những người tạo nên 80 mùa Thu không thể nào quên.

Cán bộ, chiến sĩ BĐBP tỉnh Quảng Ngãi thắp nến tri ân các anh hùng liệt sĩ nhân dịp 27/7. Ảnh: Văn Tánh
80 năm hành trình lịch sử, cả dân tộc bước vào cuộc trường chinh bảo vệ thành quả cách mạng chống thực dân Pháp từ 1945-1954, chống đế quốc Mỹ đấu tranh thống nhất đất nước từ 1954-1975, chống bọn Pôn Pốt-Iêng Xary ở biên giới Tây Nam từ 1976-1979, chống bọn bành trướng Bắc Kinh ở biên giới phía Bắc từ 1979-1991. Nhiều người dân Việt Nam yêu nước đi trên hành trình lịch sử 80 năm ấy đã ngã xuống, đó là những người con anh hùng của dân tộc, những trái tim không thể chết với lịch sử và với lòng người. Đây là những người con tiêu biểu của bà mẹ Việt Nam, không tiếc máu xương mình hy sinh để gìn giữ và bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Đảng, Nhà nước 80 năm qua đã tận tâm, tận lực, thực hiện biết bao công việc để thể hiện lòng biết ơn, tri ân những người con anh hùng của dân tộc, xây dựng các nghĩa trang liệt sĩ cấp quốc gia như nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang tại các xã ở mọi miền đất nước; thực hiện chế độ chính sách với thân nhân liệt sĩ. Tôi biết những địa phương không có vị thế địa - kinh tế để phát triển giàu có, chịu đựng biết bao khó khăn thời hậu chiến, nhưng vẫn làm tốt chính sách với thân nhân liệt sĩ, các vị thương binh, như tỉnh Quảng Nam (thành phố Đà Nẵng ngày nay), như tỉnh Bến Tre, quê hương Đồng Khởi (nay là tỉnh Vĩnh Long).
Tôi thấy trong văn chương Việt Nam có một kho tàng tác phẩm về “những trái tim không thể chết” 80 năm qua. Trên hành trình lịch sử, 29.200 ngày đêm của 80 năm, văn nghệ sĩ thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Khoác ba lô đi chiến trường, cầm bút, cầm súng, văn nghệ sĩ Việt Nam đã hành động như câu thơ của nhà thơ Thanh Thảo: "Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc/Ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?". Nhiều nhà thơ Việt Nam đã có những bài thơ xúc động lòng người về các liệt sĩ. Nhà thơ Hoàng Lộc có một bài thơ "Viếng bạn". Nhà thơ Vũ Cao có bài thơ "Núi đôi". Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi mới 10 tuổi đã có bài thơ "Em dâng cô một vòng hoa" viết về liệt sĩ Mạc Thị Bưởi. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước khiến dòng thơ này phát triển hơn. Nhà thơ Thanh Hải có bài thơ "Mồ anh hoa nở", nhà thơ Giang Nam có bài thơ "Quê hương", nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có bài thơ "Khoảng trời hố bom", nhà thơ Nguyễn Đức Mậu có bài thơ "Tưởng nhớ số II", nhà thơ Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) có bài thơ "Dáng đứng Việt Nam"...
Từ năm 1965 về sau, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở giai đoạn gay go, quyết liệt. Trong nền thơ hiện đại, giai đoạn 1965-1975, là giai đoạn xuất hiện rầm rộ của hàng loạt cây bút trẻ. Lớp nhà thơ trẻ này đa phần là bộ đội, thanh niên xung phong từ Trường Sơn, từ các chiến trường góp mặt cho chân dung thơ ca những năm chống Mỹ cứu nước. Bởi các anh “làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” (Hữu Thỉnh).
Sáng tác các bài thơ về các liệt sĩ, hình như các nhà thơ vẫn cảm thấy chưa nói hết tấm lòng với các anh hùng, liệt sĩ, nên các nhà thơ chọn thể loại trường ca. Đó là trường hợp nhà thơ Trần Đăng Khoa, sau khi viết bài thơ "Em dâng cô một vòng hoa", nhà thơ viết "Khúc hát người anh hùng". Theo sổ tay của Trần Đăng Khoa, trường ca được hoàn thành ngày 19/5/1974. Từ chiến trường khu V, năm 1962, nhà thơ Thu Bồn viết trường ca "Bài ca chim Chơrao". Sau năm 1975, một điều đặc biệt, rất logic là trong các trường ca, các tác giả đều dành những phần, những chương để ca ngợi những người con của dân tộc ngã xuống cho thắng lợi huy hoàng 30/4/1975. Từ trường ca "Những người đi tới biển" của nhà thơ Thanh Thảo đến trường ca "Đường tới thành phố" của nhà thơ Hữu Thỉnh đều chung đặc điểm ấy. Nhà thơ Hữu Thỉnh dành chương "Điệp khúc những cây cầu" để nói về những người ngã xuống cho thắng lợi hôm nay. Ba khúc của chương này, nhằm vẽ lên ba chân dung của ba kiểu người ngã xuống, để làm tiền đề cho thắng lợi mà anh thể hiện trong chương bốn "Tờ lịch cuối cùng".

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Hà Tiên, BĐBP tỉnh An Giang phối hợp với Phường đoàn Hà Tiên chỉnh trang, dọn vệ sinh nghĩa trang liệt sĩ Hà Tiên. Ảnh: Minh Nhòa
Côn Đảo là địa danh mà các nhà thơ Việt Nam dành cho sáng tác của mình. Nhà thơ Anh Ngọc viết trường ca "Sóng Côn Đảo". Đáng lưu tâm, thơ viết về người liệt sĩ của các nhà thơ trong lịch sử, các tác giả thường thể hiện trực diện sự hy sinh của người chiến sĩ. Có được điều ấy, phải có cái nhìn đúng đắn. Xưa nay, miêu tả những mất mát, những tổn thất của dân tộc trong chiến tranh vẫn là điều khó đặt ra cho các cây bút có trách nhiệm. Viết làm sao nói được nỗi đau trước sự hy sinh của các liệt sĩ, không chìm đắm trong nước mắt, rồi chỉ thấy một màu tang tóc, ảm đạm để bài thơ có sức lay động, củng cố niềm tin của nhiều người. Sâu sắc, triết lý là những câu thơ của nhà thơ Vũ Quần Phương khi ra viếng thăm các liệt sĩ ở Côn Đảo: "Tên anh năm mất với năm sinh/Giữa năm mất năm sinh là một đường vạch nhỏ/Một đường vạch chỉ một đường vạch đỏ/Cả một đời giông bão đi qua".
Ở lĩnh vực văn xuôi, các nhà văn có rất nhiều tác phẩm văn xuôi về các liệt sĩ. Có thể nhắc tới "Chị Sáu ở Côn Đảo" của Lê Quang Vịnh, "Nhật ký chiến tranh" của Trịnh Văn Vũ, "Mãi mãi tuổi hai mươi" của Nguyễn Văn Thạc, "Làng ta có một anh hùng" của Nguyễn Quang Lập, "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu, "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh, "Linh ứng" của Nguyễn Mạnh Tuấn, "Thánh ca Truông Bồn" của Trần Huy Quang, "Thanh xuân như cỏ" của Lê Hoài Nam...
Một đặc điểm của 80 năm lịch sử là các nhà văn, nhà thơ viết về chiến tranh, về các liệt sĩ luôn luôn ở tư cách người trong cuộc. Bản thân các anh, các chị tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ với tư cách chiến sĩ, nên hy sinh là liệt sĩ. Những Thâm Tâm, Nam Cao, Dương Thị Xuân Quý, Lê Anh Xuân, Nguyễn Trọng Định, Nguyễn Mỹ, Vũ Đình Văn, Nguyễn Thi... còn sống mãi trong tâm trí nhân dân là văn nghệ sĩ/chiến sĩ/liệt sĩ như một bài thơ đẹp của lịch sử. Các văn nghệ sĩ, dù đã hy sinh hay còn sống tạo thành một “binh chủng đặc biệt”, góp phần vào thắng lợi của các cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp, chống Mỹ, chống Pôn Pốt, chống bành trướng Bắc Kinh, tạo nên trang sử vàng của lịch sử 80 năm. Tác phẩm của họ, dù thơ hay văn xuôi, đều dựng lên được một chân dung của những người con của dân tộc vốn mang trong mình dòng máu anh hùng, nay dưới ánh sáng của Đảng càng được nhân lên gấp bội phần.
Nhân dân ta đời đời biết ơn các liệt sĩ, Tổ quốc dựng bia, tượng đài ghi công các liệt sĩ. 80 năm qua, các văn nghệ sĩ đã dựng lên những đài liệt sĩ bằng văn xuôi, bằng thơ, đẹp và hoành tráng, thân thương biết mấy. Nhớ lại 80 mùa Thu lịch sử qua văn chương, từ năm 1945 đến nay, như một lần chúng ta đến với các nghĩa trang liệt sĩ, để bày tỏ niềm biết ơn, sự kính phục với các liệt sĩ, rồi ra về trong gió thoảng hương trầm, trong tiếng rì rào của hàng dương thường có ở các nghĩa trang và tự nhủ: "Tay cầm lại của cha ông từng nắm đất/Rồi giữ gìn. Bằng chính máu xương ta" (Chế Lan Viên).
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chí Bền